Câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều Bài 9: Văn bản. Người đợi trước hiên nhà

Bộ câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 9: Văn bản. Người đợi trước hiên nhà. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học ngữ văn 7 cánh diều.

Xem: => Giáo án ngữ văn 7 cánh diều (bản word)

VĂN.BẢN. NGƯỜI ĐỢI TRƯỚC HIÊN NHÀ

(18 câu)

1.    NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Em hãy giới thiệu vài nét về tác giả.

Trả lời:

- Huỳnh Như Phương sinh năm 1955, quê quán ở Quang Ngãi

- GS Huỳnh Như Phương là nhà giáo chuyên giảng dạy lý thuyết văn học ở Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM, đồng thời là nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975.

- Lúc chưa tới tuổi 20, Huỳnh Như Phương đã có bài đăng trên các tạp chí có khuynh hướng thiên tả lúc đó như Trình Bầy, Đối Diện.

Câu 2: Tác phẩm thuộc thể loại gì?
Trả lời:

Tản văn

 

Câu 3: Phương thức biểu đạt của tác phẩm là gì?

Trả lời:

Tự sự, biểu cảm

 

Câu 4:Tóm tắt tác phẩm bằng đoạn văn ngắn.

Trả lời:

Bài tản văn kể về số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai.

 

Câu 5: Bố cục chia làm mấy phần.

Trả lời:

Chia văn bản làm 3 đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “đôi người đôi ngả”: Tình cảnh ly tán “kẻ Bắc người Nam” của những gia đình có người tập kết ra Bắc.

- Đoạn 2: Tiếp theo đến “tìm mộ phần của dượng”: Tình cảnh đáng thương của dì Bảy khi dượng Bảy ra chiến trận.

- Đoạn 3: còn lại: Tấm lòng thủy chung, son sắt của Dì

2.    THÔNG HIỂU (6 câu)

Câu 1: Em hãy nêu hoàn cảnh nhân vật dì bảy

Trả lời:

- Mới lấy nhau được 1 tháng, Dượng Bảy đã phải ra Bắc tập kết à Đôi người đôi ngả

- Cuối năm 1975 gia đình nhận được giấy báo tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng à Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, dì dượng đã phải chia ly mãi mãi.

 

Câu 2: Tìm chi tiết cho thấy tính cách yêu thương chồng con của dì Bảy

Trả lời:

+ Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gõ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân.

+ Cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

 

Câu 3: Tìm chi tiết nói lên phẩm chất thủy chung, yêu thương chồng con của dì Bảy

Trả lời:

+ Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về.

+ Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.

- Dù cho có cô đơn, lẻ loi dì Bảy vẫn một lòng thủy chung với người chồng đã khuất của mình

- Dì Bảy là người phụ nữ đức hạnh, đại diện cho phẩm chất của những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng hi sinh cả thanh xuân, tuổi trẻ của mình, nén nỗi đau cá nhân vào bên trong, âm thầm góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

 

Câu 4: Nhân vật dượng Bảy có gia cảnh như thế nào?

Trả lời:
Dượng Bảy người Tam Kỳ (Quảng Nam), mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới

 

Câu 5: Dượng bảy có số phận đau thương như thế nào?

Trả lời:

- Chỉ một tháng sau khi lấy vợ đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.

- Dượng hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng.

- Dượng Bảy đại diện cho những người anh hùng ra đi bỏ lại đằng sau là gia đình, người thân. Chiến đấu để giải phóng dân tộc, để nhân dân được bình yên hạnh phúc. Nhưng lại không có cái may mắn được chứng kiến ngày đất nước được giải phóng

 

Câu 6: Tìm chi tiết nói lên phẩm chất yêu thương gia đình của dượng Bảy

Trả lời:

- Thỉnh thoảng dượng lại gửi thư về, lá thư được gói trong bọc ni-lông bé tí

- Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn

- Khi bị lỡ mất chuyến xe về thăm gia đình. Dượng nhờ một người đi đường báo tin cho gia đình và gửi tặng dì chiếc nón bài thơ.

- Dượng Bảy luôn nhớ tới gia đình, luôn nhớ tới người vợ tảo tần, phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả.

 

3.    VẬN DỤNG CAO (5 câu)

Câu 1: Văn bản được mở đầu với hoàn cảnh nào? Hoàn cảnh đó có tác động như thế nào đối với nhân vật trong bài viết.

Trả lời:

Văn bản mở đầu bằng hoàn cảnh lịch sử đất nước năm 1954 - thời kì cam go của đất nước đang phải chống chọi với thực dân Pháp. Chính hoàn cảnh ấy, đã gợi lên sự mất mát, đau thương của thời đại lịch sử. 

 

Câu 2: Trong văn bản, tác giả Huỳnh Như Phương đã thể hiện những tình cảm nào đối với nhân vật dì Bảy? Những chi tiết nào trong văn bản giúp em nhận ra điều đó?

Trả lời:

Có thể thấy rằng, nhân vật dì Bảy mang những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam - giàu đức hy sinh, tấm lòng thủy chung son sắc. Dượng Bảy và dì Bảy chỉ mới kết hôn được một tháng, đây là giai đoạn tình cảm vợ chồng vẫn còn mặn nồng, gắn bó. Dù vậy, dì Bảy vẫn chấp nhận để chồng tập kết ra Bắc, đôi người đôi ngả. Ở đây, có thể thấy được sự hy sinh của dì xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước. Dì đã đặt lợi ích của đất nước lên trên hạnh phúc của cá nhân. Điều đó khiến người đọc thêm cảm phục trước tấm lòng của nhân vật này. 

Không chỉ vậy, dì Bảy còn là một người phụ nữ hết mực thủy chung. Trong những năm xa cách, dì Bảy luôn giữ liên lạc với dượng Bảy, đợi chờ chồng trở về. Mỗi khi nhận được thư của chồng, dì lại cảm thấy hạnh phúc, hy vọng đến ngày được đoàn tụ. Hình ảnh khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng nhất đó chính là mỗi ngày, sau khi đi làm đồng về, dì lại ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng Bảy cùng đồng đội đến nhà xin trú quân. Dượng Bảy đã hy sinh, ngày hòa bình lặp lại, dì đã bốn mươi tuổi, nhưng vẫn có người đàn ông để ý đến dì. Dù vậy, lòng dì Bảy đã không còn rung động. Dì đã giữ tấm lòng thủy chung như vậy cho đến hết đời.

Có thể thấy rằng, dì Bảy chỉ là một trong rất nhiều người phụ nữ Việt Nam thuở còn chiến tranh cho chúng ta thấy rằng sự hy sinh thầm lặng, cao cả của những người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Từ đó, mỗi người cần có thái độ tôn trọng, biết ơn những người phụ nữ như dì Bảy.

Câu 3: Nêu những đặc điểm giúp em nhận diện văn bản "Người ngồi đợi trước hiên nhà" là một bài tản văn.

Trả lời:

Đây là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác giả.

Câu 4: Nêu giá trị nội dung văn bản

Trả lời:

Bài tản văn kể về số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Qua đó phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác. Đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

 

Câu 5: Nêu giá trị nghệ thuật văn bản

Trả lời:

- Ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc.

- Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động.

 

4.    VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Nêu thông điệp và ý nghĩa của văn bản.

Trả lời:

Ca ngợi đức hi sinh cao cả, thầm lặng, phẩm chất thủy chung, tình nghĩa của những người vợ có chồng tham gia chiến tranh.

- Xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường.

- Tố cáo chiến tranh tàn ác đã đẩy những gia đình vào cảnh li tán, chia lìa.

 

Câu 2: Phân tích tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Trả lời:

Tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà được viết theo ngôi kể thứ nhất, chất tự sự xen lẫn trữ tình, miêu tả giúp ta hình dung được sự hi sinh thầm lặng của những người phụ nữ.

Mở đầu tản văn tác giả giới thiệu hoàn cảnh chia tay nhân vật Dượng Bảy, được tác giả giới thiệu rõ ràng: “Sau khi Hiệp định Geneve được kí kết, cuối năm 1954 ở quê tôi gần một nửa gia đình có người thân đi tập kết ra miền Bắc. Không khí làng quê chùng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam”.

Đó là một hoàn cảnh đặc biệt khi mà dượng Bảy và dì mới cưới, còn là vợ chồng son: “Mới một tháng trước đó, nhà tôi rộn rã với đám cưới của dì Bảy. Dượng Bảy người Tam Kỳ, mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới. Chỉ một tháng sau là đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.” Từ đây, suốt ngần ấy năm cuộc đời dì Bảy ở vậy chờ chồng trước hiên nhà. Dượng Bảy và dì Bảy gắn bó với nhau chỉ ít ngày và hạnh phúc cũng chỉ ngắn ngủi như vậy. Nhưng suốt cả một cuộc đời dỉ Bảy vẫn ngồi đợi chồng trước hiên nhà.

Mạch cảm xúc nhẹ nhàng, dẫn dắt người đọc đi theo kí họa về cuộc đời dì Bảy. “Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về. Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn. Hình như lời cầu nguyện của dì linh ứng để dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.”. Dì vẫn luôn cầu mong dượng còn sống, những tin tức truyền về thường xuyên trở thành niềm hi vọng lớn lao với dì Bảy

Khi những người em của dì lần lượt trở về nhưng dượng vẫn không có tin tức dì vẫn ngồi trước hiên nhà chờ đợi. “Dì Bảy tôi lại ngồi trước hiên nhà mỏi mắt nhìn ra đường cái. Nhưng hai cậu tôi lần lượt trở về mà dượng Bảy vẫn không tin tức”.

Dì Bảy trở thành quả phụ, tác giả không miêu tả rõ sự đau khổ của dì Bảy, không đi sâu vào tâm lí nhân vật như trong truyện ngắn mà liên tưởng tới những câu chuyện cổ với hình ảnh người kị sĩ trong chiến trận – một sự liên tưởng độc đáo, hình tượng hóa dượng Bảy. Thế nhưng người thầm lặng nhất vẫn là dì Bảy: người phụ nữ ấy suốt hai mươi năm qua lặng lẽ đợi chồng, để giờ đây nén lại đau thương lập bàn thờ cho chồng.

Hạnh phúc trong một tháng nhưng với dì Bảy có lẽ là duyên nợ cả đời – dì ở vậy. Có người đàn ông ưng dì, mặc dù dì đã ngoài bốn mươi. Dì ở vậy với mẹ già tới khi bà mất. Dì vẫn ngồi trước hiên vào mỗi buổi chiều để chờ đợi. Một sự khắc khoải đến đau lòng. Đọc đến đây, ta không khỏi liên tưởng tới hình ảnh kẻ chinh phụ đợi người chinh phu trong thơ cổ. Hay nàng Tô Thị ôm con chờ chồng hóa đá vọng phu…

Đến cuối tản văn ta mới biết được tên gọi của người phụ nữ tên thật là Lê Thị Thỏa – một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Việc giới thiệu tên gọi địa chỉ của dì Bảy khiến ta càng thêm trân trọng sự hi sinh vĩ đại của người phụ nữ Việt.

Trải qua chiến tranh có biết bao thế hệ thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người vĩnh viễn nằm lại chiến trường, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng bạn bè, người thân. Người mất là sự hi sinh vĩnh viễn nhưng đau xót hơn là người ở lại cùng nỗi trống vắng, cô đơn dài dằng dặc của thiếu phụ thờ chồng.

 

a

=> Giáo án ngữ văn 7 cánh diều tiết: Văn bản 2 - Người ngồi đợi trước hiên nhà

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay