Đáp án Tiếng Việt 3 cánh diều Bài Ôn tập giữa kì 2

File đáp án Tiếng Việt 3 cánh diều Bài Ôn tập giữa kì 2. Toàn bộ câu hỏi, bài tập ở trong bài học đều có đáp án. Tài liệu dạng file word, tải về dễ dàng. File đáp án này giúp kiểm tra nhanh kết quả. Chỉ có đáp án nên giúp học sinh tư duy, tránh học vẹt

BÀI 15: ÔN TẬP GIỮA HỌC KỲ 2

TIẾT 1

Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, đọc thuộc lòng: Mỗi học sinh đọc một đoạn văn, bài thơ khoảng 70-75 tiếng hoặc đọc thuộc lòng một đoạn thơ (bài thơ) đã học.

Trả lời:

 Học sinh tự thực hiện.

Câu 2: Đọc và làm bài tập:

  1. a) Tìm trong câu thứ nhất các bộ phận câu:

Trả lời cho câu hỏi Ai?

Trả lời cho câu hỏi Làm gì?

Trả lời cho câu hỏi Khi nào?

Trả lời cho câu hỏi Ở đâu?

  1. b) Trả lời câu hỏi:

Vào mùa lúa, người ta dựng những chú bù nhìn trên cánh đồng để làm gì?

Theo em, người ta gắn dưới bụng mỗi chủ bù nhìn một chùm lon để làm gì?

Trả lời:

  1. a) Các bộ phận câu trong câu thứ nhất:

Trả lời cho câu hỏi Ai?: "Người ta"

Trả lời cho câu hỏi Làm gì?: "dựng hình người bằng rơm"

Trả lời cho câu hỏi Khi nào?: "Vào mùa lúa"

Trả lời cho câu hỏi Ở đâu?: "trên cánh đồng"

  1. b) Trả lời câu hỏi:

Vào mùa lúa, người ta dựng những chú bù nhìn trên cánh đồng để đuổi chim chóc đến phá hoại mùa màng

Theo em, người ta gắn dưới bụng mỗi chú bù nhìn một chùm lon để khi có gió thổi, những chiếc lon sẽ va vào nhau, tạo ra tiếng kêu khiến chim chóc sợ và bay đi.

TIẾT 2

Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng. Học thuộc lòng.

Trả lời:

Học sinh tự thực hiện.

Câu 2: Đọc và làm bài tập:

1) Bài thơ có bao nhiêu dòng nhắc lại hai từ "tiếng chim"?

2) Bằng cách lặp lai liên tục hai từ "tiếng chim", bài thơ diễn tả điều gì? Chọn ý đúng:

3) Chọn câu trả lời đúng:

  1. a) Các hình ảnh về tiếng chim buổi sáng từ dòng thứ 3 đến dòng thứ 8 nói lên điều gì?
  • Tiếng chim buổi sáng như ánh nắng.
  • Tiếng chim buổi sáng như bầy ong.
  • Tiếng chim buổi sáng thật là kì diệu.
  1. b) Câu thơ nào cho thấy tiếng chim buổi sáng như một dàn nhạc có sự tham gia của rất nhiều loài chim?
  • “Tiếng chim cùng bé tưới hoa / Mát trong từng giọt nước hoà tiếng chim".
  • "Vòm cây xanh, đố bé tìm / Tiếng nào riêng giữa trăm nghìn tiếng chung".
  • “Tiếng chim lay động lá cảnh / Tiếng chim đánh thức chồi xanh dậy cùng".
  1. c) Câu thơ nào cho thấy vườn hoa rất yêu thích tiếng chim buổi sáng?
  • “Tiếng chim vỗ cánh bầy ong / Tiếng chim tha nắng rải đồng
  • "Gọi bông lúa chín về thôn / Tiếng chim nhuộm óng cây rơm trước nhà" 
  • "Mà vườn hoa cũng lạ lùng / Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim."

4) Dựa theo gợi ý từ bài thơ trên, em hãy viết:

  1. a) Một câu tả tiếng chim buổi sáng.
  2. b) Một câu diễn tả niềm vui của em khi nghe tiếng chim hót.

Trả lời:

1) Bài thơ có 8 dòng nhắc đến từ "Tiếng chim".

2) 

Ý

Đúng

Sai

a) Tiếng chim buổi sáng rộn rã khắp nơi.

x

b) Tiếng chim buổi sáng du dương, trầm bổng

x

c) Tiếng chim buổi sáng vọng đến tận trời xanh

x

3) Chọn câu đúng:

  1. a) Các hình ảnh về tiếng chim buổi sáng từ dòng thứ 3 đến dòng thứ 8 nói lên rằng, tiếng chim buổi sáng như ánh nắng.
  2. b) Câu thơ cho thấy tiếng chim buổi sáng như một dàn nhạc có sự tham gia của rất nhiều loài chim: "Vòm cây xanh, đố bé tìm/Tiếng nào riêng giữa trăm nghìn tiếng chung".
  3. c) Câu thơ cho thấy vườn hoa rất yêu thích tiếng chim buổi sáng: "Mà vườn hoa cũng lạ lùng/Nghiêng tai nghe đến không cùng tiếng chim".

4) Dựa theo gợi ý từ bài thơ trên, em hãy viết:

  1. a) Một câu tả tiếng chim buổi sáng: Tiếng chim buổi sớm trong veo, rộn ràng cả một góc vườn.
  2. b) Một câu diễn tả niềm vui của em khi nghe tiếng chim hót: Tiếng chim như thôi thúc em chạy thật nhanh ra vườn, đón chào một ngày mới tràn đầy năng lượng.

 

TIẾT 3

Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

Học sinh tự thực hiện.

Câu 2: Viết một bức thư hỏi thăm người thân (hoặc bạn bè) và nói về việc học tập của em (hoặc về một chuyện vui ở địa phương em).

Trả lời:

Hà Nội ngày 1 tháng 6 năm 2021

Ngọc Mai thân mến,

Dạo này gia đình cậu có khỏe không? Năm học vừa rồi của cậu như thế nào? Để tớ kể cho cậu nghe một chút về những sự kiện trong năm học của tới nhé!

Tớ rất vui khi năm học vừa rồi đã danh hiệu học sinh xuất sắc, Mai ạ. Số điểm trong kỳ thi cuối kỳ đúng như tớ mong ước. Cả hai môn Toán và Tiếng Việt đều đạt điểm 9. Riêng môn tiếng Anh tớ đã đạt điểm tối đa. Cậu cũng biết tớ rất thích học tiếng Anh mà. Ngoài ra, trong cuộc thi “Rung chuông vàng” do trường tớ tổ chức, tớ cũng may mắn lọt vào vòng bán kết của khối 3 đấy. Tuy cuối cùng không giành được giải nhất nhưng tớ cũng cảm thấy rất vui vì qua cuộc thi này tớ học hỏi được rất nhiều điều. Ngoài công việc học tập thì tớ cũng tích cực tham gia các hoạt động văn nghệ của trường nữa.

Tớ cảm thấy mỗi ngày đến trường đều là một ngày vui. Còn cậu thì sao? Hãy sớm viết thư lại cho tớ nhé.

Bạn của cậu

Thu Phương

TIẾT 4

 

Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng và thuôc lòng

Trả lời:

Học sinh tự thực hiện.

Câu 2: Nghe - viết:  Bầu trời ngoài cửa sổ

Trả lời:

Học sinh lắng nghe và viết chính tả.

Câu 3: Trong đoạn văn trên, vầng trăng được so sánh với những sự vật nào? Qua mỗi hình ảnh so sánh, em hình dung vầng trăng như thế nào?

Trả lời:

Trong đoạn văn trên, vầng trăng được so sánh với "chiếc thuyền vàng trôi giữa mây", "chiếc đèn lồng thả ánh sáng xuống đầy sân"

Qua hình ảnh so sánh vầng trăng với "chiếc thuyền vàng trôi giữa mây", em hình dung vầng trăng đang trôi nhẹ trên bầu trời, ẩn hiện trong mây.

So sánh vầng trăng như "chiếc đèn lồng thả ánh sáng xuống đầy sân", em hình dung thấy một vầng trăng tròn xoe, sáng vằng vặc giữa bầu trời.

TIẾT 5

Câu 1: Đánh giá kĩ năng đọc thành tiếng, học thuộc lòng.

Trả lời:

Học sinh tự thực hiện.

Câu 2: Nghe và kể lại câu chuyện: Nghe và kể lại câu chuyện sau:

GƯƠM THẦN

Truyện dân gian Ba-na

Gợi ý:

- Điều gì đã xảy ra ở buôn làng?

- Cậu bé ra đời và trở thành một chàng trai như thế nào?

- Chàng trai từ biệt mẹ đi đâu?

- Chàng trai nói gì và chuyện gì đã xảy ra?

- Những ai đã giúp chàng trai làm thanh gươm thần và cùng chàng đi đánh giặc?

Trả lời:

Gươm thần

Truyện dân gian Ba-na

Năm ấy, có một tên bạo chúa ở vùng biển xa bỗng nhiên kéo quân đánh lên vùng rừng núi của người Bana. Quân của chúng đi tới đâu, lập tức rừng xanh trở thành khoảng trắng, nương rẫy thành bãi sỏi đá, buôn làng thành đất bằng. Bọn chúng thi nhau chém giết, bức ép dân làng, bắt hết trâu, bò, heo, gà; cướp sạch lúa, bắp, chiêng ché, nốc cạn rượu ngon, mật ngọt, đốt trụi cả cửa nhà.

Người người căm hờn. Núi rừng cũng bừng bừng nổi giận. Dân khắp các Tơ-ring (khu vực cư trú gồm nhiều làng) trăm miền rừng núi đều một lòng một dạ đứng lên cầm khiên dao chống kẻ thù. Nhưng quân giặc đông, thế giặc mạnh, dân chống không nổi. Buôn làng quằn quại đau thương.

Giữa lúc ấy, ở một buôn nhỏ trong rừng sâu, có một bà tên là HơBia Đát. Một hôm, bà Đát làm rẫy mệt quá, lẩn vào một gốc cây ngồi nghỉ. Nắng trưa như đổ lửa, bà khát quá muốn tìm nước uống. Chợt trông thấy một vũng nước trong vắt sau gốc cây, bên khe đá, bà vội chạy đến cúi xuống uống một hơi. Nước mát thấm đến ruột gan. Nhưng vừa uống xong, đứng dậy, bà lấy làm lạ vì bụng nặng chình chịch và cứ to ra mãi. Rồi chỉ ba tháng sau, bà đã trở dạ và sinh được một đứa con trai.

Đứa bé ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi, chẳng bao lâu đã trở thành một chàng trai có sức khỏe lạ thường. Nhìn quê hương bị quân thù tàn phá, lòng chàng căm thù vô hạn. Chàng bèn xin mẹ, từ giã buôn làng đi khắp đó đây, tìm theo những người tài giỏi để đi giết giặc. Nhưng đi mãi, đi mãi, qua bao nhiêu buôn làng, bao nhiêu ngọn núi, chàng vẫn chưa gặp ai có tài sức đánh đuổi được kẻ thù. Càng đi nhiều, càng thấy những cảnh đau thương, tang tóc của nhân dân, chàng càng nóng lòng gặp được người tài để hợp lòng giết giặc.

Uất ức, căm hờn nhưng không biết tính sao, chàng trai dậm chân xuống đất, ngẩng mặt lên trời mà than rằng:

- Ơ ông trời, sao chẳng giúp ta rửa sạch thù này?

Chàng vừa dứt lời thì lạ thay, bầu trời đang quang đãng bỗng nhiên tối sầm lại, mây đen kéo đầy, dông bão nổi lên. Và một tiếng nổ rung trời chuyển đất làm núi đồi lảo đảo, rừng rú ngả nghiêng, đất sụt, chàng trai ngã xuống một hố nước nóng sâu thẳm, hơi bốc lên mù mịt. Vùng vẫy trong nước, chàng cố sức ngoi lên. Khi chàng ngụp đầu để bơi thì chợt thấy một vật đen đen, dài dài chìm trong sóng nước. Lấy làm lạ, chàng bèn lặn hẳn xuống, dùng răng cắn chặt lấy vật đó và bơi thẳng lên bờ. Và chàng nhận ra vật đó là một thanh thép quý. Từ lúc thanh thép được mang lên bờ, nước hồ bỗng nguội đi, sương mù cũng tan hết và đất trời lại sáng sủa như thường.

Chàng sung sướng ngắm vuốt thanh thép còn bốc khói và trong bụng thầm cảm tạ thần linh đã ban cho chàng một báu vật. Chàng vác thanh thép chạy thẳng đến nhà một người thợ rèn ở gần đấy. Chàng nhờ bác thợ rèn, rèn ngay cho mình một thanh gươm để đi đánh giặc. Nghe nói thế, bác thợ rèn vội vã làm ngay. Bác cho thanh thép vào lò, nung suốt ngày, từ sáng đến tối, đốt hết cả than mà thanh thép vẫn trơ ra không đỏ. Chàng trai cùng dân buôn phải kéo đi đốt hết cả một cánh rừng già, lấy cây đốt thành than, đem về cho bác thợ rèn nung thép. Đến đêm hôm thứ bảy, khi khối than khổng lồ cháy gần hết thì thanh thép mới đỏ và bỗng nhiên đỏ rực như mặt trời. Và dưới tay búa lành nghề của bác thợ rèn, thanh thép đỏ phút chuốc đã trở thành lưỡi gươm sắc và sáng quắc.

Các bác thợ mộc trong khéo tay nhất trong vùng cũng kéo đến, chia nhau đi tìm gỗ gáy về làm chuôi và vỏ gươm. Xong xuôi họ nâng thanh gươm trao cho chàng trai con của HơBia Đát. Chàng nhận gươm và lập tức trút ra khỏi vỏ. Một tia sáng chói lòa phóng ra. Mọi người dạt ra, lấy tay che mắt cho khỏi chóa. Gươm hoa lên, tỏa muôn ánh hào quang làm mờ cả ánh sáng mặt trời. Mặt trời cũng chói mắt liền kéo mây che kín mặt. Mặt đất tối sầm, gió bão nổi lên, sấm sét gầm thét ầm ầm.

Chàng trai con của HơBia Đát múa gươm xông thẳng đến kẻ thù. Trong gió bão, dân các nơi cũng cầm khiên đao, cung nỏ hò reo xông tới. Sấm sét cũng chạy theo gươm thần, gầm vang liên tiếp bổ xuống quân thù. Lưỡi gươm của chàng trai vung tới đâu, quân giặc tan tới đó. Chỉ trong một đêm, lũ quân hung bạo và tên bạo chúa đều bị giết dưới lưỡi gươm thần.

Đánh tan giặc rồi, dân làng reo mừng kéo về dựng lại nhà rông, sửa sang lại buôn làng, nương rẫy. Chẳng bao lâu, khắp mọi vùng đều làm ăn thịnh vượng và chàng dũng sĩ, con của HơBia Đát năm xưa đã thành một ông già râu tóc trắng như bông. Dân làng nhớ ơn nên rất quý trọng ông già, coi ông là ngôi sao sáng trên trời cao. Do đó mọi người gọi ông là ông Tú và gọi lưỡi gươm diệt trừ bạo chúa là Gươm ông Tú.

Một hôm, ông Tú bị ốm nặng, dân buôn hết lòng chạy chữa nhưng ông không khỏi. Biết mình sắp chết, ông Tú liền đem thanh gươm thần ra, thả xuống hồ nước do đất sụt năm kia, để trả lại cho thần linh. Sóng nước nhận gươm, sôi lên sùng sục. Mặt hồ lại bốc khói mịt mù.

Đời sau truyền lại rằng, ở hồ nước đó, người Kinh đã mò được vỏ gươm, người Khơme mò được chuôi gươm, còn chính người Bana thì mò được lưỡi gươm. Người ta còn nói rằng, nếu lắp thanh gươm thần lại trọn vẹn thì sức mạnh của nó sẽ không có gì địch nổi. 

Câu 3: Trao đổi:

  1. a) Câu chuyện chàng trai có sức khỏe lạ thường và thanh gươm thần thể hiện ước mơ gì của nhân dân ta?
  2. b) Những chi tiết nào trong câu chuyện cho thấy người dân đồng lòng cùng chàng trai đánh giặc?
  3. c) Câu chuyện trên nói lên điều gì?

Trả lời:

  1. a) Câu chuyện chàng trai có sức khỏe lạ thường và thanh gươm thần thể hiện ước mơ có sức mạnh để có thể đánh thắng giặc ngoại xâm của nhân dân ta.
  2. b) Những chi tiết trong câu chuyện cho thấy người dân đồng lòng cùng chàng trai đánh giặc là:

- Chàng trai cùng dân buôn phải kéo đi đốt hết cả một cánh rừng già, lấy cây đốt thành than, đem về cho bác thợ rèn nung thép. Và dưới tay búa lành nghề của bác thợ rèn, thanh thép đỏ phút chuốc đã trở thành lưỡi gươm sắc và sáng quắc.

- Các bác thợ mộc trong khéo tay nhất trong vùng cũng kéo đến, chia nhau đi tìm gỗ gáy về làm chuôi và vỏ gươm.

- Chàng trai con của HơBia Đát múa gươm xông thẳng đến kẻ thù. Trong gió bão, dân các nơi cũng cầm khiên đao, cung nỏ hò reo xông tới.

- Đánh tan giặc rồi, dân làng reo mừng kéo về dựng lại nhà rông, sửa sang lại buôn làng, nương rẫy.

  1. c) Câu chuyện nói lên ước mơ, khát vọng được tự do, chống áp bức của con người đồng thời thể hiện tinh thân đoàn kết, lòng yêu quê hướng của con người. 

TIẾT 6

 

Câu 1: Câu nào tóm tắt đầy đủ đặc điểm của cây rau khúc? Chọn ý đúng.

  1. a) Cây rau khúc chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú, lá như mạ bạc.
  2. b) Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng
  3. c) Sương sớm đọng trên là long lanh như những bóng đèn pha lê.

Trả lời:

  1. a) Cây rau khúc chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú, lá như mạ bạc.

Câu 2: Tác giả tả chiếc bánh khúc như thế nào? Ghép đúng:

Trả lời:

Câu 3: Đoạn văn tả cây rau khúc có mấy câu có hình ảnh so sánh?

  1. a) 1 câu. Đó là câu nào?
  2. b) 2 câu. Đó là câu nào?
  3. c) 3 câu. Đó là câu nào?

Trả lời:

  1. b) 2 câu. Đó là câu:
  • "Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng."
  • "Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê."

Câu 4: Đoạn văn tả chiếc bánh khúc có mấy câu có hình ảnh so sánh?

  1. a) 1 câu. Đó là câu nào?
  2. b) 2 câu. Đó là câu nào?
  3. c) 3 câu. Đó là câu nào?

Trả lời:

  1. b) 2 câu. Đó là câu:
  • "Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa."
  • "Cắn một miếng bánh thì như thấy cả hương đồng, có nội gói vào trong đó."

Câu 5: Từ "quê hương" trong câu cuối bài đọc có tác dụng gì? Chọn ý đúng:

  1. a) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với quê hương.
  2. b) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với tuổi thơ.
  3. c) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với người dì.

Trả lời:

  1. a) Gắn kỉ niệm của tác giả về chiếc bánh khúc với quê hương.

 

TIẾT 7 (Bài luyện viết)

Chọn 1 trong 2 đề sau:

  1. Viết đoạn văn nói về một nhân vật em yêu thích trong những câu chuyện (bộ phim) em đã đọc, đã nghe (đã xem) và cho biết vì sao em yêu thích nhân vật đó.
  2. Viết đoạn văn nói về tình cảm, cảm xúc của em với một cảnh đẹp mà em biết.

Trả lời:

Chọn đề 2:

Tràng An là một Khu du lịch sinh thái nằm trong Quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc tỉnh Ninh Bình. Khu sinh thái Tràng An được ví như một "bảo tàng địa chất ngoài trời". Đặc sản của nơi đây là phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, những dãy núi đá vôi, hang động thạch nhũ với những hình thù độc đáo. Xuôi chèo theo làn nước trong xanh, ta có thể chiêm ngưỡng những dãy núi uốn lượn hùng vỹ, những cánh đồng lúa bên suối đẹp bình dị, những ngôi đền linh thiêng ẩn hiện trong những tán lá cây nơi chân núi. Nếu để ý quan sát, du khách trên thuyền còn có thể bắt gặp những con sóc, con voọc,... nhảy nhót trên vách núi. Môi trường thiên nhiên đa dạng và hài hoà giữa sinh vật, núi rừng, hang động làm nên cảnh sắc non xanh nước biếc kỳ vĩ hiếm có, làm say đắm lòng người. Vào mùa du lịch, Tràng An nhộn nhịp những chiếc thuyền chở du khách đi thăm quan, vãn cảnh. Có thể nói, Tràng An - Ninh Bình là một nơi non nước hữu tình, một địa điểm du lịch lí tưởng cho những người yêu thiên nhiên, muốn hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: File word đáp án tiếng việt 3 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay