Câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều Bài 1: Văn bản. Buổi học cuối cùng
Bộ câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 1: Văn bản. Buổi học cuối cùng. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học ngữ văn 7 cánh diều.
Xem: => Giáo án ngữ văn 7 cánh diều (bản word)
VĂN BẢN. BUỔI HỌC CUỐI CÙNG
1. NHẬN BIẾT
Câu 1: Em hãy giới thiệu vài nét về tác giả.
Trả lời:
- An-phông-xơ Đô-đê (1840-1897)
- Quê quán: Pháp
- Phong cách nghệ thuật: Nhân đạo, triết lý
- Tác phẩm chính: Một thời niên thiếu, Những cuộc phiêu liêu kì diệu của Tactaranh ở Taraxcong
Câu 2: Tác phẩm viết theo thể loại gì?
Trả lời:
Truyện ngắn.
Câu 3: Phương thức biểu đạt của tác phẩm là gì?
Trả lời:
Tự sự
Câu 4: Em hãy nêu xuất xứ và hoàn cảnh của tác phẩm.
Trả lời:
Là một truyện ngắn trong tuyển tập truyện “ Truyện kể ngày thứ hai”
Câu 5: Em hãy tóm tắt ngắn văn bản
Trả lời:
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng của người dân An –đát và cậu bé Phrăng. Chuyện được kể bằng chính lời kể của cậu, một cậu bé người An- đát hay nghỉ học và lười học bài về nhà. Hôm đó, vì mải chơi, không học bài nên Prăng không muốn đến trường. Cuối cùng cậu bé cũng vẫn đến lớp.
Câu 6: Văn bản được chia làm mấy phần và nội dung chính mỗi phần là gì?
Trả lời:
- Phần 1 (từ đầu đến “vắng mặt con”): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng.
- Phần 2 (tiếp đó đến “nhớ mãi buổi học cuối cùng này”): Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
Câu 7: Văn bản được viết theo ngôi thứ mấy
Trả lời:
Ngôi thứ nhất
2. THÔNG HIỂU
Câu 1: Em hãy phân tích ngắn về nhân vật Phrăng.
Trả lời:
– Vốn ham chơi và không thích học hành mấy, thế nên thường đến lớp rất trễ, hay lẻn vào lớp những khi lớp ồn ào và thầy giáo thì không để ý.
– Ở buổi học cuối cùng Phrăng cũng tiếp tục ham chơi, trì hoãn giờ tới lớp, thậm chí toan trốn học. Tuy nhiên một điều gì đó đã khiến cậu cưỡng lại được niềm ham thích và chạy thật nhanh đến lớp học.
– Việc thấy thông báo trên đường và cuộc gặp gỡ với bác thợ rèn Oát-stơ và khung cảnh bên ngoài yên tĩnh lớp học của thầy Ha-men khiến cậu thấy có gì đó khác lạ.
=> Ban đầu Phrăng còn lo sợ bị thầy Ha-men đánh đòn vì tội tới muộn. Nhưng khi nhận thức được sự khác lạ của lớp học và nghe lời phát biểu từ tốn của thầy Ha-men trên bục giảng Phrăng choáng váng và giận dữ, bừng tỉnh một sự thật rằng Pháp thua trận
=> Việc không nhớ được bài cũ đã khiến lòng Phrăng trào lên biết bao cảm xúc hối hận và xấu hổ vì đã không học tiếng Pháp một cách nghiêm túc thay vì ham hố rong chơi.
Câu 2: Em hãy phân tích ngắn về thầy Hamen
Trả lời:
- Chỉ ra sai lầm của tất thảy mọi người nơi đây. Đó là sự trì hoãn thậm tệ trong sự học hành tiếng mẹ đẻ.
- Khẳng định vẻ đẹp của tiếng Pháp.
- Viết lên bảng 4 chữ nước Pháp muôn năm.
=> Thầy là tấm gương sáng về tấm lòng yêu nước và không khuất phục trước kẻ thù.
Câu 3: Nội dung chính của văn bản Bài học cuối cùng?
Trả lời:
Văn bản là câu chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát trước khi bị quân Phổ chiếm đóng qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Truyện hiện lên khung cảnh trang trọng và đẩy xúc động của buổi học cuối cùng, qua đó đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”
Câu 4: Băn khoăn của cậu bé Phrang về lũ chim bồ câu: "Liệu người ta có bắt cả chúng nó phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?" gợi cho em suy nghĩ gì?
Trả lời:
Thầy Ha-men nói “... con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” bởi vì với một đứa trẻ, không biết đọc, biết viết và không được học tiếng mẹ đẻ của mình chính là sự trừng phạt quá lớn.
Câu 5: Em hiểu thế nào về nhan đề tác phẩm? Tác dụng của ngôi kể là gì?
Trả lời:
Em hiểu nhan đề Buổi học cuối cùng nói về buổi học Pháp văn cuối cùng của các học sinh ở vùng An-dát. Đó là buổi học cuối cùng bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của "Tổ quốc đang ra đi", vì hôm sau họ sẽ phải học bằng tiếng Đức.
3. VẬN DỤNG CAO
Câu 1: Vì sao thầy Ha-men lại nói: "...con bị trừng phạt thế là đủ rồi...."?
Trả lời:
Thầy Ha-men nói “... con bị trừng phạt thế là đủ rồi…” bởi vì với một đứa trẻ, không biết đọc, biết viết và không được học tiếng mẹ đẻ của mình chính là sự trừng phạt quá lớn.
Câu 2: Em có suy nghĩ gì về ý kiến: "...khi dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù..."
Trả lời:
Câu nói khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.…
Câu 3: Nêu giá trị nội dung của văn bản
Trả lời:
Buổi học cuối cùng này, không chỉ đơn thuần là buổi học tiếng Pháp cuối ở mảnh đất An-dát mà đúng hơn nó là một buổi học đầy ý nghĩa và cảm động về lòng yêu và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là tấm lòng tự tôn, yêu hòa bình nước nước thiết tha mà thầy Ha-men muốn truyền thụ cho học trò của mình. Sự thức tỉnh của nhân vật Phrăng chính là minh chứng cho sự thấu hiểu sâu sắc về ý nghĩa của ngôn ngữ mẹ đẻ của người dân Pháp, cũng như niềm tin vào một tương lai nước Pháp lại thống nhất mà tác giả muốn truyền tải đến độc giả.
Câu 4: Nêu giá trị nghệ thuật của tác phẩm
Trả lời:
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi", người kể chuyện là cậu bé Phrăng giúp cho câu chuyện tự nhiên và góp phần diễn tả một cách chân thực, sinh động tâm trạng, cảm xúc của nhân vật.
- Tình huống truyện hấp dẫn, thu hút người đọc.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, nhân vật hiện lên sinh động qua ngoại hình, trang phục, cử chỉ, lời nói, hành động, tâm trạng.
4. VẬN DỤNG CAO
Câu 1: Phân tích tác phẩm Bài học cuối cùng
Trả lời:
“Buổi học cuối cùng” của An-phông-xơ Đô-đê là những lời tâm sự hồn nhiên, ngây thơ nhưng vô cùng xúc động của chú bé Phrăng về buổi học Pháp văn cuối cùng.
Câu chuyện bắt đầu bằng việc Phrăng đi học muộn. Thiên nhiên được miêu tả với bầu trời trong trẻo, những tiếng sáo hót véo von như có một mãnh lực ghê gớm khiến chú bé muốn bỏ trốn buổi học ngày hôm nay. Nhưng Phrăng đã cưỡng lại được và một mạch chạy đến trường. Khi đi qua trụ sở xã, mọi người tụ tập rất đông với bầu không khí đầy căng thẳng, họ đứng ở bảng dán cáo thị – nơi thường đăng những tin chẳng lành: thất trận, các mệnh lệnh của chỉ huy Đức.
Khi đến lớp học, Phrăng đã cảm nhận được mọi điều đang diễn ra thật kì lạ. Nếu thông thường buổi học là những “tiếng ồn ào như chợ vỡ vang ra tận ngoài phố” “tiếng ngăn bàn đóng mở”… thì hôm nay tất cả chỉ là sự yên lặng, các bạn của cậu đều đã ngồi vào chỗ. Đặc biệt hơn nữa, thầy Ha-men đối xử ân cần với Phăng thay vì giận dữ khi cậu bé đi học muộn: “Phăng, vào chỗ nhanh lên con, lớp học sắp bắt đầu mà không có con”.
Thầy Ha-men ăn vận thật đẹp đẽ, sang trọng. Thầy mặc bộ quần áo chỉ dành cho những dịp quan trọng: chiếc áo rơ-đanh-gốt, màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu, cùng với đó là sự xuất hiện của những người lớn tuổi.
Không khí của lớp học trở nên trang trọng, khác thường. Buổi học bắt đầu, thầy Ha-men bằng giọng dịu dàng đã thông báo đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Nghe những điều thầy thông báo Phăng cảm thấy choáng váng. Trước nỗi xúc động tột cùng, cậu bé đã không kìm được cảm xúc mà bật lên tiếng nguyền rủa: “A! Quân khốn nạn…” – lời nói ấy không còn là của một chú bé ngây thơ, mà đó là lời của một con người yêu nước.
Sau giây phút ấy chú bé đã vô cùng hối hận vì những lần đã trốn học hay lãng phí thời gian. Phrăng quên cả những lời thầy mắng mỏ khi không thuộc bài. Lúc này đây, những lời thầy Ha-men nói như chạm vào tâm can mỗi học trò. Đặc biệt nhất là khi nghe những lời tâm sự của thầy, tất cả mọi người trong lớp học đều cảm thấy xúc động.
Ai nấy đều chú ý lắng nghe, như nuốt từng lời thầy giảng. Ai cũng đều khắc ghi lời giảng của thầy Ha-men về tiếng Pháp: “tiếng Pháp là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ được tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”.
Đặc biệt hơn nữa trong những giờ phút cuối cùng của buổi học thầy Ha-men đã viết lên bảng dòng chữ: “Nước Pháp muôn năm” và ra hiệu cho mọi người kết thúc buổi học. Hành động của thầy vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn vừa đượm buồn, đồng thời như lời thúc giục mọi người hãy lên đường đấu tranh, đem tiếng Pháp trở lại.
Tác phẩm “Buổi học cuối cùng” được viết ở ngôi thứ nhất qua những suy nghĩ, cảm nhận của chú bé Phrăng làm cho câu chuyện trở nên chân thật, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ dung dị nhưng sâu sắc, giàu sức biểu cảm đã thể hiện trọn vẹn tình yêu nước của các nhân vật.
Bằng cách diễn đạt giản dị nhưng lôi cuốn, truyện đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa muôn đời đó chính là lòng yêu nước gắn liền với tình yêu tiếng mẹ đẻ. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh chân lí: giáo dục lòng yêu nước từ những gì bình dị, nhỏ bé nhất.
Câu 2: Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về một nhân vật mà em yêu thích trong văn bản "Buổi học cuối cùng"
Trả lời:
Đối với văn bản "Buổi học cuối cùng" nhân vật để lại nhiều ấn tượng nhất đó là thấy giáo Ha-men. Thấy giáo trong buổi học cuối cùng hiện lên trong ánh mắt của học sinh với bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Thầy Ha-men hôm nay rất dịu dàng, không giận dữ quát mắng; kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù. Ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy Ha- men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: "Nước Pháp muôn năm". Thấy được người thầy luôn yêu tiếng mẹ đẻ, dành hết tâm huyết cho những học sinh của mình. Người thầy chính là người truyền những năng lượng tích cực và tư tưởng cho những bạn đọc.
=> Giáo án tiết: Văn bản 2- Buổi học cuối cùng