Đáp án Lịch sử 10 cánh diều Bài 14: Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của văn minh Đại Việt
File Đáp án Lịch sử 10 cánh diều Bài 14: Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của văn minh Đại Việt. Toàn bộ câu hỏi, bài tập ở trong bài học đều có đáp án. Tài liệu dạng file word, tải về dễ dàng. File đáp án này giúp kiểm tra nhanh kết quả. Chỉ có đáp án nên giúp học sinh tư duy, tránh học vẹt
Xem: => Giáo án lịch sử 10 cánh diều (bản word)
BÀI 14. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA VĂN MINH ĐẠI VIỆT
1. Khái niệm văn minh Đại Việt
Câu 1: Đọc thông tin, hãy giải thích khái niệm văn minh Đại Việt.
Trả lời:
Khái niệm văn minh Đại Việt:
- Văn minh Đại Việt tồn tại và phát triển cùng quốc gia Đại Việt trải dài gần 1 000 năm (từ thế kỉ X đến thế thế kỉ XIX), gắn liền với chính quyền họ khúc, họ Dương và các triều đại Ngô, Đình, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn.
- văn minh Đại Việt được phát triển trong điều kiện độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Việt với kinh đô chủ yếu ở Thăng Long (Hà Nội). Văn minh Đại Việt còn gọi là văn minh Thăng Long.
2. Cơ sở hình thành văn minh Đại Việt
Câu 1: Đọc thông tin, tư liệu và quan sát các Hình từ 14.1-14.3, hãy phân tích cơ sở hình thành nền văn minh Đại Việt. Theo em, cơ sở nào quan trọng nhất? Vì sao?
Trả lời:
- Phân tích cơ sở hình thành nền văn minh Đại Việt:
- Kế thừa văn minh Văn Lang - Âu Lạc: văn minh Đại Việt có nguồn gốc sâu xa từ nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc được bảo tồn qua hơn 1 000 năm Bắc thuộc. Những di sản và truyền thống của vă minh Văn Lang - Âu Lạc tiếp tục được phục hưng, phát triển trong thời kì độc lập, tự chủ.
- Dựa trên nền độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Việt: Độc lập, tự chủ là nhân tố quan trọng của việc hình thành và phát triển văn minh Đại Việt. Năm 905, Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ bước đầu. Năm 938, sau chiến thắng chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương, mở ra thời kì độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc. Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Trải qua các triều đại khác nhau, nền độc lập, tự chủ quốc gia tiếp tục được củng cố vững chắc.
- Tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn minh bên ngoài: Trong quá trình hình thành và phát triển, ngoài việc kế thừa nền văn minh Văn Lang, Âu Lạc, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn minh từ bên ngoài, đặc biệt là văn minh Trung Quốc, văn minh Ấn Độ, góp phần làm phong phú nền văn minh Đại Việt.
- Cơ sở quan trọng nhất là kế thừa văn minh Văn Lang - Âu Lạc. Nền văn minh Đại Việt có nguồn gốc sâu xa từ những truyền thống sản xuất chiến đấu của tổ tiên, được kế thừa những di sản văn hoá, văn minh hoá của thời kì Văn Lang - Âu Lạc và của hàng nghìn năm đấu tranh chống Bắc thuộc. Vì vậy nó càng có điều kiện phát huy và phát triển trong hoàn cảnh đất nước hoà bình.
3. Quá trình phát triển của văn minh Đại Việt
Câu 1: Đọc thông tin và quan sát Hình 14.4, hãy:
- Trình bày quá trình phát triển của nền văn minh Đại Việt trên trục thời gian.
- Nêu vị trí, vai trò của Hoàng thành Thăng Long trong tiến trình phát triển nền văn minh Đại Việt.
Trả lời:
- Trình bày quá trình phát triển của nền văn minh Đại Việt trên trục thời gian.
- Vị trí, vai trò của Hoàng thành Thăng Long trong tiến trình phát triển nền văn minh Đại Việt:
- Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là trung tâm quyền lực nối tiếp nhau của Việt Nam trong hơn một nghìn năm lịch sử, là minh chứng có một không hai về sự tiến hóa của nền văn minh dân tộc trong lịch sử phát triển của nhà nước quân chủ vùng Đông Nam Á và Đông Á.
- Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là trung tâm quyền lực nối tiếp nhau của Việt Nam trong hơn một nghìn năm lịch sử, là minh chứng có một không hai về sự tiến hóa của nền văn minh dân tộc trong lịch sử phát triển của nhà nước quân chủ vùng Đông Nam Á và Đông Á.
- Tất cả các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hệ thống di tích cực kỳ phong phú, đa dạng, các loại di vật với số lượng khổng lồ của kinh đô Thăng Long. Các di tích này đã làm rõ hơn dấu tích của kinh đô Thăng Long với cấu trúc cơ bản gồm 3 vòng thành bao bọc lẫn nhau (Tam trùng thành quách) gồm Đại La thành, Hoàng thành và Cấm thành mà tâm điểm là nền Chính điện Kính thiên thời Lê được xây dựng trên cơ sở nền điện Thiên Ân thời Lý – Trần, và nền điện Càn Nguyên thời Lý.
- Khu di sản Hoàng thành Thăng Long với các di tích kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, quy hoạch đô thị… đã thể hiện sự giao lưu tiếp xúc các tư tưởng Phật Giáo, Nho giáo, Lão giáo, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản trên cơ tầng của nền văn hóa bản địa Việt Nam được chắt lọc, hòa quyện và biến đổi tạo nên một nền văn hóa độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam qua suốt hàng nghìn năm lịch sử, là sự chứng minh nổi bật cho sự tiến hóa của một nền văn minh thuộc châu Á của người Việt được hình thành tại vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ từ thế kỷ thứ VII được tiếp nối thế kỷ XIX – XX.
- Di sản văn hóa thế giới Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di tích của một trung tâm quyền lực chính trị địa phương (thế kỷ VII – IX), trở thành một trung tâm quyền lực trung ương Đại Việt từ thế kỷ XI. Đó cũng là trung tâm quyền lực của các vương triều Việt Nam cai trị lâu dài qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam nối tiếp đến ngày nay.
LUYỆN TẬP
Câu 1: Vẽ sơ đồ tư duy về cơ sở hình thành và quá trình phát triển của nền văn minh Đại Việt.
Trả lời:
Vẽ sơ đồ tư duy về:
- Cơ sở hình thành của nền văn minh Đại Việt:
- Quá trình phát triển của nền văn minh Đại Việt:
VẬN DỤNG
Câu 1: Sưu tầm và giới thiệu về một thành tựu tiêu biểu của nền văn minh Đại Việt mang dấu ấn của văn minh Văn Lang - Âu Lạc.
Trả lời:
Sưu tầm và giới thiệu về một thành tựu tiêu biểu của nền văn minh Đại Việt mang dấu ấn của văn minh Văn Lang - Âu Lạc:
Nghề nông đã có từ sớm ở nước ta trải qua thời kì Bắc thuộc, sang thời kì phong kiến độc lập tự chủ, nền nông nghiệp này càng phát triển. Từ những thế kỉ đầu công nguyên khi các công cụ sắt đã trở thành phổ biến thì lưỡi cày sắt đã thay thế dần cho lưỡi cày đồng. Nông nghiệp dùng cày và sức kéo của trâu bò trở thành phổ biến ở vùng đồng bằng. Các vua nhà Tiền Lê, nhà Lý luôn luôn chăm lo đến sản xuất nông nghiệp: đầu mùa xuân, vua thường có lễ cày tịch điền khuyến khích dân trong việc nông tang, trong các bộ luật đều có những điều cấm giết trâu bò, miễn giảm thuế cho dân trong những năm mùa màng thất thu. Nhà nước còn đặt ra các chức Hà đê sứ, Khuyến nông sứ, chuyên trông coi việc đắp đê và sản xuất nông nghiệp. Dưới thời Lê sơ (thế kỉ XV) nhà nước ban hành phép quân điền, thống nhất quy tắc phân chia ruộng cày ở các làng xã nhằm bảo đảm cho người dân lao động đều có ruộng cày. Vì vậy mọi người đều phấn khởi và yên tâm sản xuất. Từ thời Lý - Trần nhân dân Đại Việt đã biết sử dụng kĩ thuật thâm canh trong làm ruộng, một năm hai ba vụ.
Năm 1291, sứ giả nhà Nguyên đến nước ta rất quan tâm đến việc đắp đê. Năm 1077 Nhà lý cho đắp đê sông Như Nguyệt (Sông Cầu) . Năm 1108 đắp đê Cơ Xá dọc sông Hồng. Năm 1248 nhà Trần tổ chức việc đắp đê biển chạy suốt từ Ninh Bình đến nam Hải Phòng, bảo vệ hàng vạn mẫu ruộng được khai phá ở vùng biển, đồng thời tạo điều kiện cho việc mở rộng hơn nữa diện tích canh tác.
Với sự khuyến khích của nhà nước, nhân dân qu?ý tộc, quan lại còn hợp lực khai phá đất hoang, xây dựng làng xóm, mở rộng ruộng đồng.
Trên cơ sở khẩn hoang vùng ven biển và cùng đất phía nam, diện tích ruộng đất ngày càng mở rộng. Kĩ thuật sản xuất được đúc kết dựa trên kinh nghiệm thực hiện 4 khâu nước, phân, cần, giống.
Bằng cách nhân giống lúa , đến thế kỉ XVIII, cả Đàng trong và Đàng ngoài đã trồng được nhiều giống lúa khác nhau. Theo Lê Qu?ý Đôn trong Phủ biên tạp lục thì bấy giờ ở Đàng ngoài đã trồng được 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa và 29 giống lúa nếp. Cuối thế kỉ XVIII, ngô được du nhập. Cùng với ngô có cao lương, kê, khoai, sắn. Đàng trong cũng trồng được 20 giống lúa tẻ và 32 giống lúa nếp. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long thì có những nơi mà một đơn vị thóc giống gieo cấy thì người ta thu hoạch được 300 đơn vị thóc gặt. Ngoài việc trồng lúa, trồng cây ăn quả cũng khá phát triển. Trầu cau được trồng ở khắp nơi, nhuộm răng ăn trầu là một tục lệ cổ truyền phổ biến. Sự phát triển nông nghiệp vừa đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống của cư dân, vừa tạo cơ sở cho sự tồn tại của bộ máy nhà nước và nâng Đại Việt lên địa vị một quốc gia cường chính bậc nhất Đông Nam á vào thế kỉ XV và giữ được nền độc lập quốc gia ở thế kỉ XVIII.