Đáp án Ngữ văn 11 kết nối tri thức Bài 6 Văn bản 2: Trao duyên (P2)
File đáp án Ngữ văn 11 kết nối tri thức Bài 6 Văn bản 2: Trao duyên (P2). Toàn bộ câu hỏi, bài tập ở trong bài học đều có đáp án. Tài liệu dạng file word, tải về dễ dàng. File đáp án này giúp kiểm tra nhanh kết quả. Chỉ có đáp án nên giúp học sinh tư duy, tránh học vẹt
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
VĂN BẢN: TRAO DUYÊN
SAU KHI ĐỌC
CH4. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối (chú ý sự thay đổi đối tượng tâm tình và giọng điệu).
Tham khảo:
Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.
Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân.
Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.
→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế,cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
CH5. Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong đoạn trích. Hãy minh họa bằng một ví dụ mà bạn thấy tâm đắc.
Tham khảo:
Vẻ đẹp ngôn từ trong đoạn trích được thể hiện qua tính hình tượng, gợi lên những hình ảnh khiến nhân vật và sự kiện như hiện hữu ngoài đời thực. Tính Hình tượng mang đến sức thuyết phục, đồng thời khơi gợi sự đồng cảm, tri âm từ phía độc giả đối với người nghệ sĩ cũng như những nhân vật trong tác phẩm. Hai câu thơ:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Thúy Kiều xét theo vai vế là bậc chị lớn trong nhà, nhưng khi nhờ đến em lại phải "cậy", hỏi ý kiến em qua "chịu lời". Vì nàng biết, điều mà nàng khẩn khoản nhờ em tới đây thật khó chấp nhận, nhưng Thúy Vân sẽ chẳng có cách nào từ chối. "Lạy" rồi "thưa", Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều tự kể lại câu chuyện tình yêu bi kịch của chính mình trong tâm thế một kẻ bề dưới, nhọc lòng mong mỏi người khác giúp đỡ nàng. Những từ ngữ đắt giá không chỉ thể hiện hoàn cảnh khốn cùng của Thúy Kiều mà còn bộc lộ sự mong chờ, tha thiết của nàng, những mong em gái chấp nhận lời cầu xin.
Đi vào thẳng vấn đề, Thúy Kiều bày tỏ, tâm sự với Thúy Vân về mối tình mặn nồng của mình và Kim Trọng. "Quạt ước", "chén thề", những vật làm tin bí mật giữa Kim và Kiều. Vào đêm hôm ấy, có đất, có trời, có trăng, có sao và có tấm lòng son sắt, hai người đã trao cho nhau chiếc quạt đính ước, ly rượu phu thê thề nguyền. Rồi còn có cả "chiếc vành với bức tờ mây", "phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa", những kỉ vật tình yêu được Thúy Kiều trang trọng cất giữ, giờ đây nàng trao lại cho em gái với hi vọng em sẽ thay vị trí của mình, nối tiếp mối duyên hồng với người yêu. Tuy vậy, nàng Kiều trong phút giây khổ đau đoạn tuyệt vẫn muốn níu kéo chút tình cảm lứa đôi:
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Cái luyến tiếc những kí ức dấu yêu khiến Kiều bị dày vò tinh thần, không còn đủ tỉnh táo. Rõ ràng là duyên đã trao, lại mang thân phận cậy nhờ, nhưng nàng vẫn muốn "vật này của chung", vẫn muốn lưu giữ lại những kỉ niệm đáng nhớ giữa nàng và người yêu. Dễ hiểu thôi cho một người con gái, người con gái mới biết yêu lần đầu, chẳng thể nào cam tâm cắt bỏ hoàn toàn mối duyên tình, chỉ mong muốn được gìn giữ lại cho bản thân chút hình bóng nhỏ bé. Cảm xúc chân thật của Thúy Kiều gợi trong lòng người đọc nỗi đồng cảm, thấu hiểu cho những day dứt của nàng, thấu hiểu vì sao nàng lại muốn giữ làm của chung như vậy. Tình yêu còn nồng cháy như vậy, chẳng thể nào đành lòng ra tay chấm dứt.
Một chi tiết đắt giá thể hiện tính hình tượng của vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật là khi Kiều nghĩ đến cái chết. Người con gái tuổi mới trăng tròn còn mơn mởn sức sống như vậy, nhưng đứng trước hoàn cảnh chia li, trong đầu chỉ quanh quẩn đến kết thúc bi kịch, cái chết.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai
"Bồ liễu", "trúc mai" vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ, mang tính biểu tượng hàm súc, gợi tả dáng vẻ mong manh, liễu yếu đào tơ của người con gái. Với Thúy Kiều, không chỉ là thân phận long đong, không sức chống cự, mà "bồ liễu", "trúc mai" còn là tiếng than cho duyên phận lỡ làng, phúc phần mỏng manh mà nàng phải gánh chịu. Ra đi không mong ngày trở về, trước mắt nàng là tương lai đen tối, mịt mù, là cái chết vĩnh hằng, bị chà đạp, rẻ rúng đến chết. Xót xa thay cho một kiếp người, còn trẻ, còn biết yêu, biết rung động mà đã tự đặt ra cho mình cái chết cận kề. Tác giả không nói về sự đau khổ, không đề cập trực tiếp đến tình yêu thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng, những câu thơ cuối bài, tiếng kêu của Kiều đã thể hiện rất rõ những bi kịch mà nàng gặp phải:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Kiều gọi Kim Trọng là "lang", là cách gọi của người phụ nữ xưa đối với chồng. Đối với Kiều, chàng Kim không còn đơn thuần chỉ là người yêu, mà đó là chồng, là đức lang quân mà nàng trao gửi số phận. Vị trí của Kim Trọng trong tim nàng quả thực to lớn. Nhưng giờ đây, nàng đành chấp nhận xa rời, chấp nhận từ bỏ mối tình còn đang nồng cháy với chàng, vì chữ hiếu, vì phải bán mình để đổi lấy hạnh phúc cho người thân. Nàng phụ lòng chàng Kim, chỉ biết thốt lên một câu đầy ai oán. Bi kịch tình yêu tan vỡ, những trái tim còn thổn thức yêu nhau bị chia rẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao hàm toàn vẹn cảm xúc của nhân vật Kiều, người đọc dường như có thể thấu cảm được những diễn biến tâm trạng của nàng, từ cam chịu đến luyến tiếc rồi đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối mặt với sự thật phũ phàng. Tác giả đã chạm đến trái tim và lòng trắc ẩn của bạn đọc để cùng tri âm, sẻ chia sự đau xót đối với nhân vật.
Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật trong "Trao duyên" còn được thể hiện ở tính cá thể hóa, qua đó, Thúy Kiều bộc lộ được cá tính riêng biệt, không hòa lẫn của mình. Từng câu chữ trong tác phẩm đều tập trung gợi tả thân phận tội nghiệp của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh, từng trang thơ là từng trang nước mắt khóc thương cho người phụ nữ kém may mắn. Thúy Kiều hiện lên qua trang viết của Nguyễn Du là người con gái biết điều, biết nghĩ, hiếu thảo với cha mẹ, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của bản thân nhưng cũng vô cùng sắc sảo, chủ động trao duyên cho em gái vì muốn giữ trọn lời thề. Đặc biệt, cá tính của Kiều thể hiện ở chỗ, trao duyên cho Thúy Vân nhưng nàng vẫn đề cập đến việc được giữ lại chút ít kỉ vật giữa nàng và Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái mạnh mẽ, thông minh. "Trao duyên" thực chất là lời bộc bạch của Thúy Kiều trên những cung bậc cảm xúc lẫn lộn, giằng xé. Tuy đau là thế, tiếc là thế, đứng giữa những hồi ức hạnh phúc và tương lai bi kịch, nhưng cái tinh tế, sắc sảo mà ý nhị của người con gái ấy vẫn được thể hiện khéo léo. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật mang tính nhân văn cao cả Nguyễn Du, yêu thương con người, trân trọng và cảm thông cho những số phận cơ cực, bất hạnh.
Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật qua "Trao duyên" đã làm nên kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên tên tuổi của Nguyễn Du không chỉ trong nước mà còn có sức ảnh hưởng tầm cỡ thế giới. Ngôn từ trong sáng, chọn lọc, mang nhiều tầng nghĩa, gợi tả, gợi cảm cùng đảm bao ba chức năng chính: thông tin, hình tượng và cá thể hóa đã đưa Truyện Kiều trở thành chuẩn mực ngôn từ trong làng văn học thơ Nôm. Với tác phẩm này, thơ chữ Nôm đã tạo nên thành công vang dội, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời bấy giờ lên tầm văn hóa, bản sắc đặc trưng riêng biệt của dân tộc.
KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT
Truyện Kiều là tiếng nói hiểu đời, thương đời của Nguyễn Du. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) chỉ ra biểu hiện của sự "hiểu" và "thương" ấy trong đoạn trích Trao duyên.
Tham khảo:
Giá trị tiêu biểu của văn học không nằm ở hiện tượng bề ngoài mà nằm ở chiều sâu hiểu biết về con người. Điểm sâu sắc và giàu sức thuyết phục nhất của Truyện Kiều là ở chỗ, qua thế giới nhân vật, Nguyễn Du thể hiện một tấm lòng rất mực thông cảm, bao dung đối với con người. Ông hầu như hiểu hết mọi điều uẩn khúc của con người, nhìn rõ chỗ mạnh chỗ yếu, thậm chí cả chỗ tầm thường của họ và miêu tả với tấm lòng xót xa, thương cảm. Qua các nhân vật, Nguyễn Du biểu hiện lòng thông cảm, bao dung nhìn rõ chỗ mạnh, chỗ yếu chỗ tầm thường của con người. Trước hết, Kiều tự xót xa cho thân phận mình, tự thấy mình là “người mệnh bạc”, tự thấy mình còn sống mà như đã chết, đã “mất người”, hình dung ra một tương lai không xa: Thúy Vân hạnh phúc bên Kim Trọng, còn linh hồn nàng trở về trong ngọn gió, không siêu thoát được vì còn “mang nặng lời thề”. Kiều thấy rõ nỗi đau khổ của mình - “người thác oan". Tiếng nói thương đời, hiểu đời vang lên mãnh liệt, quằn quại, đau đớn trong giờ phút đỉnh điểm của “trao duyên”. Trao duyên, với Kiều, đồng nghĩa với trao cả sự sống, hạnh phúc. Trao duyên đồng nghĩa với việc Kiều sẽ trở thành “người mệnh bạc”, “mất người”, “người thác oan”, “phận bạc như vôi”… Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân để giảm đi nỗi day dứt trong lòng TK và phần nào làm theo quy luật người xưa. Thái độ của Thúy Kiều khẩn khoản càng tỏ ra là người hiểu được tình thế và vị trí hiện tại của mình. Lời nói với Thúy Vân thể hiện sự ai oán, day dứt nhưng cũng khiến cho Thúy Vân suy nghĩ.Tiếng nói thương thân, xót thân gắn liền với bi kịch tình yêu tan vỡ, trao duyên nhưng không thể trao tình, thậm chí duyên đã trao đi mà tình càng thêm nặng. Vậy mới càng thấy bi kịch tình yêu, vậy mới càng thấy rõ tấm lòng vị tha, đức hi sinh và tình yêu sâu nặng của Kiều dành cho Kim Trọng.
=> Giáo án Ngữ văn 11 kết nối Bài 6 Đọc 2: Trao duyên