Đề thi giữa kì 1 ngữ văn 11 kết nối tri thức (Đề số 13)

Ma trận đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn 11 kết nối tri thức Giữa kì 1 Đề số 13. Cấu trúc đề thi số 13 giữa kì 1 môn Ngữ văn 11 kết nối này bao gồm: đọc hiểu, viết, hướng dẫn chấm điểm, bảng năng lực - cấp độ tư duy, bảng đặc tả. Bộ tài liệu tải về là bản word, thầy cô có thể điều chỉnh được. Hi vọng bộ đề thi này giúp ích được cho thầy cô.

Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

Năm học: 2025-2026

Môn: Ngữ văn 11

TTNăng lực

Nội dung kiến thức – đơn vị kĩ năng

Số câu

Cấp độ tư duy
Nhận biết

Thông

hiểu

Vận dụng

Tổng

%

Số

câu

Tỉ lệ

Số

câu

Tỉ lệ

Số

câu

Tỉ lệ
I

Năng lực

Đọc

Văn bản đọc hiểu

(ngoài SGK)

6330%225%115%60%
IIViếtViết bài văn nghị luận văn học110%10%15%40%
Tỉ lệ 40%30%30%100%
Tổng7100%

Bản đặc tả yêu cầu các kĩ năng kiểm tra, đánh giá

TTKĩ năngĐơn vị kiến thức/Kĩ năngMức độ đánh giáSố câu hỏi theo mức độ nhận thức
Nhận biếtThông hiểuVận dụng

1

Đọc hiểu

Đọc hiểu văn bản ngoài SGK

Nhận biết: 

- Nhận biết được một số yếu tố đặc trưng của thể loại.

Thông hiểu:

- Nắm bắt được nội dung, đề tài, chủ đề của văn bản.

- Lí giải được vai trò của những chi tiết quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản. 

- Lí giải được vai trò của yếu tố nghệ thuật 

- Nêu được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc. 

- Phát hiện và lí giải được giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ; giá trị văn hoá, triết lí nhân sinh từ tác phẩm.

Vận dụng:

- Vận dụng được kinh nghiệm đọc, trải nghiệm về cuộc sống và kiến thức văn học để đánh giá, phê bình văn bản văn học, thể hiện được cảm xúc, suy nghĩ của cá nhân về văn bản văn học. 

- Đánh giá được giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ của tác phẩm.

- Đặt tác phẩm trong bối cảnh sáng tác và bối cảnh hiện tại để có đánh giá phù hợp. 

- Liên hệ, so sánh, đánh giá được sự giống và khác nhau giữa thơ cổ điển và thơ lãng mạn

- Đánh giá được khả năng tác động của tác phẩm văn học đối với người đọc và tiến bộ xã hội theo quan điểm cá nhân.

3 câu 

2 câu 1 câu 
2 Viết bài văn nghị luận văn học

Nhận biết:

Xác định được yêu cầu về nội dung và hình thức của bài văn nghị luận.

- Xác định rõ được mục đích, đối tượng nghị luận.

- Đảm bảo cấu trúc, bố cục của một văn bản nghị luận.

Thông hiểu:

- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các luận điểm.

- Kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm.

- Cấu trúc chặt chẽ, có mở đầu và kết thúc gây ấn tượng; sử dụng các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục, chính xác, tin cậy, thích hợp, đầy đủ; đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

Vận dụng:

- Đánh giá được ý nghĩa, ảnh hưởng của vấn đề đối với con người, xã hội.

- Nêu được những bài học, những đề nghị, khuyến nghị rút ra từ vấn đề bàn luận.

- Sử dụng kết hợp các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự sự,… để tăng sức thuyết phục cho bài viết.

- Vận dụng hiệu quả những kiến thức Tiếng Việt lớp 11 để tăng tính thuyết phục, sức hấp dẫn cho bài viết.

1*1*1*1

  

SỞ GD & ĐT ……………….Chữ kí GT1: ...........................
TRƯỜNG THPT……………….Chữ kí GT2: ...........................

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

NGỮ VĂN 11 – KẾT NỐI TRI THỨC

NĂM HỌC: 2025 – 2026

Thời gian làm bài: 120 phút (Không kể thời gian phát đề)

Họ và tên: ……………………………………  Lớp:  ………………..

Số báo danh: …………………………….……Phòng KT:…………..

Mã phách
  1. ĐỌC HIỂU (6,0 ĐIỂM)

      Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Khi nhận được lệnh trở ra miền Bắc để cùng các họa sĩ ngoài Hà Nội chuẩn bị một cái triển lãm ở nước ngoài, thì tất cả tranh và ký họa của tôi vẽ trong mấy năm đã chất lên đây một cái sạp lán giữa rừng căn cứ. Tôi lọc lây chỉ độ một phần ba, vậy mà trên đường tôi đi ra, các đồng chí phụ trách các trạm giao liên trên từng chặng từng chặng một, phải thay phiên nhau cử một chiên sĩ của trạm đi theo "thổ" tranh cho tôi.

Hôm đó, đoàn chúng tôi đi qua một vùng trên đất bạn nổi tiếng nhiều biệt kích, lại rất đói, cũng là cái "rốn" của bệnh sốt rét. Chúng tôi được nghỉ lại một ngày để dưỡng sức, lán của nhóm khách đi đường chúng tôi dựng ngay trên đầu một cái lán khác của anh em chiến sĩ trong trạm. Buổi trưa, tôi đang ngôi vẩn vơ ghi mấy cái dáng hòn đá, thân cây trước lán nghỉ của mình, thì trông thấy một người chiến sĩ nước da xam xám và cặp môi thâm sì đang leo mấy bậc dốc từ lán dưới đi lên. Người chiên sĩ đi thẳng đến trước mặt tôi ngồi xuống xem tôi vẽ. Rồi sau mấy câu chuyện làm quen, người chiến sĩ tha thiết thỉnh câu tôi vẽ cho anh một bức chân dung. (*)

Tôi bỗng thấy tự ái. Tôi là một họa sĩ, chứ đâu phải một anh thợ vẽ truyên thân! Tôi từ chối khéo băng cái mặt lạnh lùng. Người chiên sĩ tỏ vẻ phật ý, anh nhìn vào cái mặt lạnh lùng của tôi một thoáng rôi lẳng lặng quay lưng lại tôi, chậm rãi đi xuông dưới những cái bậc dộc.

Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Thật một điều không ngờ, chẳng biết ai xui khiến thế nào mà chính người chiến sĩ trưa hôm qua lại "thổ" tranh cho tôi, chính lại là anh chứ không phải một người nào khác.

Thật là phiên cho tôi quá!

Vừa ra khỏi trạm, người dẫn đường đã báo cho khách biết trên dọc đường phải vượt thật nhanh khi leo một con dốc, sau đó là một con suối rất trông trải, đã có một vài đoàn bị bọn biệt kích bắn lên hoặc máy bay thám thính phát hiện. Cái nghề đi đường rừng nó là như vậy, nói một chữ chung chung là đèo, dốc, suối...

Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. Có lẽ nó rộng đến năm trăm thước. Con suối chảy đến đấy thì phình rộng ra chảy lênh láng và réo lên ầm ầm trên một cái nền đá lởm chởm. Tuy đã được nghỉ một ngày nhưng sau khi leo qua được quả núi thì tôi đã thẩm mệt. Tôi dò dẫm đi giữa khúc suối một cách vất vả quá, cứ dần dần bị tụt lại sau. Rồi chân tôi tự nhiên bị sia xuống một hèm đá ngâm dưới nước. Tôi giơ hai tay lên trời chới với...

Người chiến sĩ "thô" tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nêu anh không đên kịp có lẽ là tôi bị dòng suôi cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lây tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi. Tôi thở dốc. Mồ hôi vã ra như tắm. Hai mắt đổ đom đóm. "Đồng chí cố gắng lên - Người chiến sĩ vừa đi vừa động viên tôi. Tôi dìu đồng chí đi nhanh qua bên kia suối sẽ nghỉ. Nếu thăng L.19 đến, chúng mình cứ ngôi xuống. Nó chẳng thấy gì cả đâu!".

Tôi không đủ sức theo kịp đoàn được nữa. Qua bên kia suối, người chiến sĩ lấy dầu con hổ bóp chân cho tôi, lúc ngồi nghỉ. Rồi bắt đầu từ đó, chỉ có hai người, anh và tôi, đi trong rừng. Tôi chỉ có thể đi người không. Người chiến sĩ vừa phải "thồ" đống tranh của tôi sau lưng (to và nặng gấp đôi một cái ba lô bình thường của khách đi đường) lại vừa phải mang thêm chiếc ba lô riêng của tôi trước ngực. Có lẽ tất cả đến sáu bảy chục cân. Mà người chiến sĩ có khỏe mạnh gì cho cam!

Tôi không nói thì chắc các bạn cũng biết, ngay từ lúc người chiến sĩ đến gặp tôi để nhận mang cái bó tranh, tôi đã khó xử đến thế nào? Thế mà bây giờ, trên dọc đường, không những riêng cái đống tài sản của tôi mà cả chính tôi cũng đã trở thành một gánh nặng cho anh. Xưa nay tôi vẫn cho mình là một kẻ cũng biết tự trọng, và cũng biết suy nghĩ. Giá người chiên sĩ tỏ thái độ lạnh nhạt hoặc mặc xác tôi năm lại một mình, tập tễnh đi một mình giữa rừng, thì tôi cũng thấy là cái lẽ phải. Xưa nay tôi vẫn quan niệm rằng: sống ở đời, cho thê nào thì nhận thê ấy. Cái cách cư xử của người chiến sĩ đôi với tôi chỉ có thể giải thích bằng lòng độ lượng. Độ lượng? Thế nhưng tôi nhiều tuổi hơn? Tôi lại là một họa sĩ có tên tuổi? Xưa nay tôi chỉ mới thấy lòng độ lượng của kẻ trên đối với người dưới. Bây giờ đây thì chính tôi, một kẻ bê trên, đang được một người dưới tỏ ra độ lượng với mình.

Tối ngày hôm đó, hai chúng tôi phải ngủ lại nửa đêm giữa rừng. Người chiến sĩ mắc võng cho tôi nằm rồi ôm súng ngồi gác bên cạnh. Nhưng làm sao mà ngủ được? Tôi đến ngồi bên anh, trên một phiến đá. Rừng đêm tôi mò và đầy hăm dọa. "Tôi xin lỗi đồng chí về cái việc hôm qua... - tôi nói khẽ bên tai anh. Đến mai, thế nào tôi cũng phải vẽ đồng chí. Một bức, thật đẹp!".

(Trích một phần từ truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, Văn học trong nhà trường, NXB Văn học, 2010, tr 40-43). 

Chú thích: 

(*) Gia đình người chiên sĩ ngoài bắc không hiểu vì sao lại nghe tin anh đã hi sinh. Không tiện đường gửi thư cũng như không có hiệu chụp ảnh, anh muốn nhờ người hoạ sĩ vẽ cho mình một bức chân dung để gửi về quê nhà báo tin cho gia đình biết mình vẫn còn sống.

Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) quê ở Nghệ An. Ông là một trong những nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Câu 1. .............................................

.............................................

.............................................
 

Câu 4. Tóm tắt sự kiện chính của đoạn trích? (1,0 điểm)

Câu 5. Qua đoạn trích trên em nhận thấy nhân vật người chiên sĩ là người như thế nào. (1,0 điểm)

Câu 6. Qua cách cư xử của người chiên sĩ với nhân vật tôi trong đoạn trích, em rút ra bài học gi cho bản thân về cách ứng xử với những người xung quanh? (1,0 điểm)

II. PHẦN VIẾT (4,0 ĐIỂM).

Viết bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) nêu cảm nhận của em về doạn trích phần Đọc hiểu.

---------------------- HẾT ---------------------- 

- Thí sinh không được sử dụng tài liệu; 

- Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.

  

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ ĐÁP ÁN

.............................................

.............................................

.............................................
 

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải sẽ có đầy đủ. Xem và tải: Đề thi ngữ văn 11 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay