Câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều Bài 7: Văn bản. Mẹ và quả
Bộ câu hỏi tự luận ngữ văn 7 cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 7: Văn bản. Mẹ và quả. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học ngữ văn 7 cánh diều.
Xem: => Giáo án ngữ văn 7 cánh diều (bản word)
VĂN BẢN. MẸ VÀ QUẢ(16 câu)1. NHẬN BIẾT (6 câu)
1. NHẬN BIẾT (6 câu)
Câu 1: Em hãy giới thiệu vài nét về Nguyễn Khoa Điềm
Trả lời:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế;
- Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người, và tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước... giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận.
- Tác phẩm chính : Đất ngoại ô (thơ, 1973); Cửa thép (ký, 1972); Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986); Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990);
Câu 2: Bài thơ thuộc thể loại gì?
Trả lời:
Thơ bảy chữ kết hợp 8 chữ
Câu 3: Phương thức biểu đạt tác phẩm là gì?
Trả lời:
Tự sự +biểu cảm
Câu 4: Nêu xuất xứ của tác phẩm
Trả lời:
Tuyển tập 40 năm do tác giả chọn
Câu 5: Tóm tắt tác phẩm bằng vài câu văn
Trả lời:
Sự nhận thức của người con về công ơn của mẹ. Nội dung ấy đã được nhà thơ lí giải một cách đầy hình ảnh khi đồng nhất liên tưởng giữa “lũ chúng tôi” với “một thứ quả trên đời”.
Câu 6: Tác phẩm chia làm mấy phần?
Trả lời:
Chia bài thơ làm 2 đoạn:
- 2 khổ thơ đầu: Thể hiện lòng mong mỏi đợi chờ cũng như công phu khó nhọc của người mẹ khi chăm sóc cây trái trong vườn.
- Khổ thơ cuối: Sự băn khoăn lo lắng khi mẹ đã già mà mình còn chưa trưởng thành.
2. THÔNG HIỂU (4 câu)
Câu 1: Phân tích hai đoạn thơ đầu.
Trả lời:
- Tác giả sử dụng hình ảnh trái bầu, trái bí để nói tới công ơn cha
- Điều quan trọng là công lao chăm bón và sự đợi mong rất nhiều hàm nghĩa của mẹ.
- Những quả như quả bí xanh, quả bầu đúng là có “dáng giọt mồ hôi mặn” – là công sức của mẹ bao ngày tháng vun trồng. Từ chuyện trồng cây, nhà thơ liên tưởng đến chuyện trồng người (chuyện chăm sóc, bồi dưỡng con người).
Câu 2: Phân tích khổ thơ cuối cùng
Trả lời:
- Mỗi chúng ta quả đúng giống như là một thứ quả mà người mẹ đã “gieo trồng”, “vun xới”, đợi mong và có khi là cả sự kì vọng vào tương lai của con mình nữa.
- Hai câu thơ cuối đầy ẩn ý, vừa là sự băn khoăn về trách nhiệm của bản thân, vừa là sự lo lắng về một điều tất yếu (“bàn tay mẹ mỏi” sự mòn mỏi đợi chờ, không chịu đựng được nữa).
- Người con lo lắng khi mình còn là thứ “quả non xanh” (chưa đến độ chín, chưa trưởng thành, hoặc rộng hơn có thể chưa làm được những điều xứng đáng với sự mong chờ của mẹ, có thể trở thành những người không tốt,…), thì người mẹ đã không còn nữa.
→ Câu thơ rất giàu hàm ý khi tác giả dùng cụm từ “bàn tay mẹ mỏi” (không thể đợi chờ được nữa). Sự lo lắng sâu sắc là biểu hiện cao của ý thức trách nhiệm phải đền đáp công ơn người đã nuôi nấng dạy dỗ mình. Chữ “mẹ” ở đây còn có thể hiểu rộng ra là Tổ quốc. Đó là tư tưởng của bài thơ.
Câu 3: Nêu giá trị nội dung của bài thơ
Trả lời:
- Ca ngợi tình yêu thương sự hi sinh của người mẹ dành cho con
- Sự hiếu thảo, biết ơn của con với người mẹ thân yêu của mình
Câu 4: Nêu giá trị nghệ thuật của bài thơ
Trả lời:
- Thể thơ 7 chữ kết hợp 8 chữ giàu nhịp điệu, sâu lắng
- Ngôn ngư thơ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu
3. VẬN DỤNG (3 câu)
Đọc hai đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu:
(1) Lưng mẹ còng rồi
Cau thì vẫn thẳng
Cau - ngọn xanh rờn
Mẹ - đầu bạc trắng
(2) Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi.
Câu 1: Hai đoạn thơ đều có sự xuất hiện của hình ảnh sóng đôi. Đó là những hình ảnh nào? Chúng có tác dụng gì?
Trả lời:
Hai đoạn thơ đều có sự xuất hiện của hình ảnh sóng đôi: hình ảnh miếng cau khô và hình ảnh những quả bí và bầu.
Đoạn 1: Trong số những hình ảnh được tác giả dùng để khắc họa hình tượng người mẹ qua hình ảnh cau để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất. Hình ảnh người mẹ tuổi già sức khỏe được ví hình ảnh cây cau tràn đầy sức sống cho thấy sự vất vả, hi sinh suốt một đời người không thể đối kháng được với thời gian, sinh lão bệnh tử.
Đoạn 2: Nghệ thuật tương phản: "lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên" đối nghịch với "còn những bí và bầu thì lớn xuống". Những người con dưới bàn tay chăm sóc của người mẹ thì dần lớn lên và trưởng thành, cùng với đó là những quả bầu bí nhờ mẹ chăm sóc mà cũng lớn dần trĩu nặng xuống.
Câu 2: Biện pháp tu từ nào xuất hiện ở cả hai đoạn thơ. Nêu tác dụng của biện pháp này.
Trả lời:
Biện pháp tu từ ẩn dụ: cau - mẹ, những quả bí và bầu - con.
Tác dụng: làm cho hình ảnh trở nên gần gũi với con người, nhấn mạnh những nỗi khó khăn, vất vả của người mẹ và tình yêu thương bao la, vô bờ bến của người mẹ dành cho đàn con của mình.
Câu 3: Viết đoạn văn (khoảng 5 - 7 câu) trình bày cảm nhận của em về hình ảnh người mẹ qua hai đoạn thơ.
Trả lời:
Những bài thơ viết về mẹ luôn có sức lay động, truyền cảm đặc biệt bởi tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng đối với mỗi con người. Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai là một trong số những bài thơ hay viết về mẹ. Trong bài thơ, tác giả đã chọn hình ảnh cây cau, trái cau xuất hiện song hành cùng mẹ. Đây là một phát hiện khá tinh tế, nhiều biểu cảm. Cây cau muôn đời thẳng, lưng mẹ mỗi ngày còng; lá cau mãi vẫn xanh, tóc mẹ gần với đất; trái câu xưa bổ bốn, nay bổ tám ngại to. Duy nhất một c nét tương đồng giữa mẹ và cau thì gợi lên bao xót xa: Cau khô – khô như mẹ. Vậy là thời gian đã lấy đi tuổi xanh, rút cạn sức lực của mẹ, khiến con đau lòng mà tự vấn trời xanh. Nhưng câu hỏi đâu có lời hồi đáp… Sinh, lão. bệnh, tử là quy luật muôn đời của loài người. Như vậy, bài thơ Mẹ là lời của người con, bộc lộ cảm xúc xót xa thương cảm khi thấy mẹ ngày một già đi, tuổi cao sức yếu, không còn khỏe mạnh minh mẫn như ngày xưa.
4. VẬN DỤNG CAO (3 câu)
Câu 1: Trình bày cách hiểu của em về hai hình ảnh: "bàn tay mẹ mỏi" và "quả non xanh" trong câu thơ sau:
"Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?"
Trả lời:
- Các biện pháp tu từ trong 2 câu thơ là:
+ Hoán dụ "bàn tay mẹ mỏi", lấy bộ phận chỉ toàn thể, nói bàn tay mỏi để nói đến sự già yếu của mẹ.
+ Ẩn dụ so sánh "một thứ quả non xanh" - chỉ người con, ý nói vẫn chưa trưởng thành.
- Tác dụng:
+ Tăng sức gợi hình và biểu cảm cho câu thơ
+ Bộc lộ tâm tư sâu kín: Tác giả tự kiểm điểm chính mình chậm trưởng thành mà lo sợ ngày mẹ mẹ già yếu đi vẫn chưa thể nở một nụ cười mãn nguyện với "vườn người" mẹ đã vun trồng suốt cả cuộc đời, lòng mẹ sẽ buồn đau. Tác giả sợ mình chưa thể báo đáp công ơn to lớn của mẹ cho trọn đạo hiếu. Qua đó, ta thấy ở nhà thơ tấm lòng yêu thương và biết ơn mẹ chân thành và vô cùng sâu sắc. Hai câu thơ cũng là nỗi lòng của biết bao kẻ làm con nên giàu sức ám ảnh, khiến người đọc không khỏi trăn trở, tự nhìn lại chính mình
Câu 2: Viết đoạn văn chia sẻ cảm xúc của em về đoạn thơ sau:
"Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi."
Trả lời:
Ở hai câu thơ "Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống", tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập, tương phản. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Cả con và bầu, bí đều lớn lên từ đôi bàn tay cần mẫn và tình yêu thương của mẹ. Người con muốn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho mẹ, người đã vì con mà vất vả, nhọc nhằn. Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình "hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi". Tác giả lấy hình ảnh "bàn tay mẹ mỏi" để chỉ người mẹ đã già yếu, đến cái tuổi "gần đất xa trời". Hai dòng thơ cuối: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh" đã diễn tả được tâm trạng lo lắng, trăn trở, pha chút ân hận của nhân vật trữ tình. Chủ thể trữ tình lo rằng mẹ già rồi mà mình vẫn còn vụng dại, chưa kịp khôn lớn, trưởng thành. Để thể hiện một cách sâu sắc nội dung, tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ độc đáo như ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, nói giảm nói tránh và hình ảnh gần gũi, giản dị. Qua tác phẩm, em càng thêm trân trọng những phút giây được ở bên mẹ của mình.
Câu 3: Phân tích tác phẩm Mẹ và quả
Trả lời:
Bài thơ Mẹ và quả được sáng tác năm 1982, ngân lên như lời tỉ tê tâm sự giản dị, chân thành của Nguyễn Khoa Điềm với mỗi chúng ta về người mẹ yêu kính của thi sĩ.
Mẹ và quả là lời của người con nói về người mẹ của mình – một người mẹ mang đầy đủ đặc điểm của những người phụ nữ Việt Nam ta xưa nay. Bài thơ đã gợi cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc: những đứa con giống như những loại quả mẹ vun trồng, một lòng chăm sóc chờ ngày đơm hoa kết trái nhận quả ngọt. Mẹ đã bỏ bao công sức, tâm huyết, tình yêu thương chỉ mong các con nên người. Bài thơ không chỉ nói về công lao to lớn của mẹ mà còn thể hiện sự biết ơn, tình yêu thương, trân trọng mà người con dành cho mẹ. Nhan đề bài thơ Mẹ và quả có vẻ rất đơn giản, nhưng nó không thoáng qua nhẹ nhàng mà đọng lại, gợi thức trong mỗi chúng ta nhiều suy ngẫm về người mẹ trải bao vất vả cưu mang, chăm chút để cho nhiều thứ quả trên đời, trong khi đó đạo sống của con người là “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Bài thơ chia làm ba khổ, tất cả gồm 12 dòng thơ với âm lượng mỗi dòng không đều nhau (5 dòng 7 chữ, 7 dòng 8 chữ). Giai điệu của bài thơ không mượt mà, du dương bởi tác giả ít quan tâm đến việc phối thanh, gieo vần; chủ yếu nhà thơ muốn bày tỏ cảm xúc chân thành, những suy nghĩ nghiêm túc gởi vào trong những hình ảnh thơ bình dị làm chúng ta nhớ mãi.
Nhưng mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, khi như mặt trăng
Ẩn dụ: “những mùa quả mẹ trồng” cho việc mẹ sinh ra, nuôi nấng, chăm sóc những đứa con thơ gian nan, vất vả nhưng mẹ luôn cố gắng đầy tâm huyết. So sánh: “Những mùa quả lặn rồi lại mọc/ Như mặt trời, khi như mặt trăng”. Cứ hết mùa quả này mẹ lại trồng mùa quả khác cũng giống như vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại của mặt trời và mặt trăng; liên tưởng này giúp bạn đọc dễ dàng hình dung ra những công lao to lớn của mẹ. Tình yêu của mẹ dành cho con là duy nhất và ấm áp như ánh mặt trời, mỗi người sưởi ấm trái đất. Nhưng tình yêu của con đối với mẹ không phải lúc nào cũng dễ dàng thể hiện và có thể diễn đạt thành lời:
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?
Thứ tình cảm đẹp nhất trên cuộc đời là tinh mẹ – tình cảm ấy là vô điều kiện, chẳng có người mẹ nào lúc chăm con lại nghĩ về việc sau này mình được báo hiếu như thế nào, chỉ cần con lớn lên khỏe mạnh là đủ. Nghệ thuật hoán dụ: Bàn tay mẹ mỏi chỉ sự già nua và sự ra đi của mẹ. Hình ảnh: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi / Mình vẫn còn một thứ quả non xanh” gợi suy nghĩ: Sẽ là một nỗi sợ nếu phải rời xa vòng tay mẹ khi chưa đủ trưởng thành để đối diện với phong ba bão táp ngoài kia; sẽ không còn bến đỗ bình yên chúng ta có thể quay về sau những mệt mỏi. Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, với một tâm hồn giàu duy tư trăn trở trước lẽ đời, Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được mẹ là hiện thân của sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào, giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt thơm. Quả không còn là một thứ quả bình thường mà là “quả” của sự thành công, là kết quả của suối nguồn nuôi dưỡng. Những câu thơ trên không chỉ ngợi ca công lao to lớn của mẹ, của thế hệ đi trước với thế hệ sau này mà còn lay thức tâm hồn con người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn sinh thành của mỗi con người chúng ta với mẹ.
=> Giáo án ngữ văn 7 cánh diều tiết: Văn bản 3- Mẹ và quả