Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều

Dưới đây là loạt câu hỏi và bài tập tự luận Ngữ văn 9 cánh diều. Bài tập tự luận chia thành 4 mức độ khác nhau: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao theo từng bài học sẽ hữu ích trong việc ôn tập, kiểm tra bài cũ, phiếu học tập, đề thi, kiểm tra... File tải về bản word, có đáp án và đầy đủ bài tập tự luận của các bài học. Kéo xuống để tham khảo.

Click vào ảnh dưới đây để xem giáo án rõ

Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều

Một số tài liệu quan tâm khác


BÀI 1: THƠ VÀ THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

VĂN BẢN 1: KHÓC DƯƠNG KHUÊ

(12 câu)

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Khuyến?

Trả lời:

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng, sau khi thị hội không đỗ, đổi thành Nguyễn Khuyến, hiệu là Quế Sơn.

Ông sinh ở làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Xuất. thân trong một gia đình nhà Nho. Năm 1864, thị Hương đậu Giải nguyên, năm 1871, thi Hội lần thứ hai đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình đỗ Đình nguyên. Vì cả ba lần thi đều đồ đầu nên người ta thường gọi ông là Tam. nguyên.

Nguyễn Khuyến làm quan khoảng hơn mười năm. Ông từng tham gia nội các ở Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hoá, án sát Nghệ An, làm Biện lí Bộ Hộ, rồi làm Bố chánh Quảng Ngãi…

Thời gian Nguyễn Khuyến làm quan, thực dân Pháp đã đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kì, và đang đánh ra miền Bắc. Cuối năm 1883, được cử làm Tổng đốc Sơn Tây, nhưng ông từ chối. Lấy cớ đau mắt nặng, ông bày tỏ thái độ bất hợp tác và cáo quan về lại quê hương.

Nguyễn Khuyến là một nhà Nho yêu nước. Ông là một trí thức được đào tạo theo khuôn mẫu đạo đức của Nho gia. Trong một thời buổi bình yên chắc chắn Nguyễn Khuyến sẽ trở thành một vị quan thanh liêm, mẫu mực.

Chứng kiến cảnh nước đã mất, nhà đã tan, ông làm rất nhiều bài thơ thể hiện tâm sự, nỗi đau của mình với non sông đất nước.

 

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về hoàn cảnh sáng tác và nhân vật Dương Khuê?

Trả lời:

  1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ ra đời khi Nguyễn Khuyến hay tin người bạn thân của mình – Dương Khuê – qua đời. Nguyễn Khuyến tự dịch từ bài thơ bằng chữ Hán của mình Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư.

  1. Tiểu sử Dương Khuê

☼ Cuộc đời

Dương Khuê (1839 – 1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, người làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, Tỉnh Hà Đông, nay là huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho.

Dương Khuê đỏ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1868) đời Tự Đức, được bổ chức Trí phủ Bình Giang (Hải Dương) rồi thăng Bố chánh.

Con đường làm quan của ông cũng lắm thăng trầm. Trước khi cáo quan về trí sĩ (lúc ông 58 tuổi), ông giữ đến chức Tổng đốc Nam Định – Ninh Bình, được thăng hàm Thượng thư.

☼ Sự nghiệp

Dương Khuê sáng tác Vân Trì thì thảo (Bản thảo thơ Vân Trì) và một số thơ văn, câu đối, trướng, … Dương Khuê là một viên chức của buổi giao thời, đường làm quan không mấy thuận buồm xuôi gió. Là bạn thân của Nguyễn Khuyến, cũng xin về hưu trước tuổi, vì thế tâm sự của ông ít nhiều cũng gặp Nguyễn Khuyến.

Dương Khuê là một cây bút tài năng, ông đã khai thác chất nhạc của ca trù với tất cả tâm hồn mình. Ông đã có công góp phần hoàn chính thể hát nói và nâng nghệ thuật ca trù lên trình độ khuôn mẫu.

 

Câu 3: Dương Khuê là người có mối quan hệ như thế nào với tác giả? Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào?

Trả lời:

Dương Khuê (1839-1902) người làng Vân Đình tỉnh Hà Đông, là bạn đồng khoa, tri âm, tri kỉ với tác giả Nguyễn Khuyến

Hoàn cảnh ra đời: Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Nguyễn Khuyến liền từ quan không hợp tác với triều đình, Dương Khuê thì ra làm quan cao cho Pháp đến chức tổng đốc Nam Định. Dù thế thì Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn giữ được tình bạn thân thiết, keo sơn, gắn bó không hề thay đổi. Năm 1902, Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến nghe tin liền làm bài thơ này khóc bạn

 

Câu 4: Giới thiệu về nhan đề, bố cục bài thơ

Trả lời:

* Giới thiệu nhan đề: Bài thơ ra đời khi người bạn thân của tác giả Nguyễn Khuyến là Dương Khuê đã qua đời. Quá đau buồn, xót thương bạn nên tác giả đã làm bài thơ "Khóc Dương Khuê" để viếng người bạn tri âm, tri kỉ của mình.

* Bố cục: gồm 4 phần

2 câu thơ đầu: Nỗi đau ban đầu

20 câu tiếp: Hồi tưởng lại những kỷ niệm về tình bạn

12 câu tiếp: Tâm trạng day dứt  khi bạn dứt áo ra đi.

4 câu thơ cuối: Trở lại nỗi đau mất bạn

 

Câu 5: Nhận xét sơ bộ về tình bạn sau khi tiếp cận bài thơ? Giá trị nghệ thuật qua cách dùng từ ở 2 câu thơ đầu?

Trả lời:

* Giữa tác giả với Dương Khuê có một tình bạn keo sơn thắm thiết, chân thành, thủy chung gắn bó. Bài thơ để viếng bạn cùng với tiếng khóc như giãi bày, gợi lại những kỉ niệm của tình bạn thắm thiết: cùng uống rượu, cùng sống trong cảnh hoạn nạn, cùng đang trong tuổi già

* Giá trị nghệ thuật qua cách dùng từ ở 2 câu thơ đầu:

 Hư từ : "Thôi à" Tiếng than nhẹ nhàng, gợi cảm, đau đột ngột khi vừa nghe tin bạn mất.

Cách xưng hô : Bác:  Sự trân trọng tình bạn người cao tuổi.

Hình ảnh : Man mác, ngậm ngùi: → nỗi mát mát như chia sẻ với đất trời. Nhịp điệu câu thơ cũng tạo nên sự nghẹn ngào chua xót.

-> Câu thơ như tiếng thở dài. Tác giả sử dụng nghệ thuật nói giảm, cách dùng hư từ và những hình ảnh mang tính tượng trưng, làm nhẹ nỗi đau đớn khi nghe tin bạn mất.

 

2. THÔNG HIỂU (4 câu)

Câu 1: Tình bạn thắm thiết, thủy chung giữa hai người được thể hiện như thế nào?

Trả lời:

Tình bạn thắm thiết, thủy chung giữa hai người được thể hiện qua những nét khắc họa của tác giả, những lời thơ khóc bạn, trong đó có tiếng khóc. Tiếng khóc như giãi bày, làm sông lại những kỉ niệm của tình bạn thắm thiết:, hay tiếng khóc mang cảm hứng nhân sinh của kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc. Cả hai người đều cùng thi đậu, cùng vui chơi, cùng nhau uống rượu, cùng gặp nhau một lần, cả hai cùng sống trong cảnh hoạn nạn và cùng đang trong tuổi già. Một tình bạn keo sơn, thắm thiết đồng thời bộc lộ nỗi niềm trong tâm trạng thầm kín với nỗi đau thời thế.

 

Câu 2: Hãy phân tích những biện pháp nghệ thuật tu từ thể hiện nỗi trống vắng của nhà thơ khi bạn qua đời? Em hiểu câu thơ "Rượu ngon không có bạn hiền" / "Không mua, không phải không tiền không mua?" như thế nào?

Trả lời:

* Biện pháp nghệ thuật:

Bài thơ sử dụng nghệ thuật tu từ như nói giảm nói tránh, điệp ngữ. Nhưng đặc sắc nhất nhất là nghệ thuật sử dụng các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối bài thơ.

Ngôn ngữ thơ đạt đến mức trong sáng tuyệt vời: Lặp 5 từ không trong tổng số 14 từ để diễn tả một cái không trống rỗng đến ghê gớm khi mất  bạn. Những hình ảnh, điển tích càng tăng thêm nỗi trống vắng khi bạn không còn.

Cách sử dụng từ và hình ảnh, sử dụng điển tích, âm điệu của câu thơ song thất lục bát, nhân vật trữ tình tự bộc lộ tâm trạng. Qua đó hiện lên 1 tình bạn già mà vẫn keo sơn, gắn bó.

* Câu thơ "Rượu ngon không có bạn hiền" / "Không mua, không phải không tiền không mua?" có thể hiểu là mất bạn Nguyễn Khuyến như mất đi một phần cơ thể. Muốn gặp bạn nhưng tuổi già không cho phép. Nay bạn mất, đau đớn vô cùng. Mất bạn trở nên cô đơn : Rượu không muốn uống, thơ không muốn làm, đàn không gảy, giường treo lên. "Không mua, không phải không tiền không mua" nghĩa là không phải không mua vì không có tiền mà vì nếu mua rồi không có ai để uống cùng, để tâm sự bầu bạn cùng ->  hiểu hơn về tình bạn thủy chung, gắn bó, hiểu thêm về khía cạnh khác của nhân cách Nguyễn Khuyến.

 

Câu 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ? Rút ra ý nghĩa bài thơ?

Trả lời:

Khi nghe tin bạn thân của mình mất quá đột ngột khiến cho nhà thơ vô cùng bàng hoàng và chua xót không tin nổi vào mắt mình. Cách gọi "bác Dương" nghe vừa thân thiết vừa kính trọng. “Bác Dương thôi đã thôi rồi / Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Câu lục ngắt nhịp 2/1/3 => đọc lên nghe nhói đau, quặn thắt như những tiếng nấc tắc nghẹn trong nỗi đau đến quá đỗi bất ngờ; cách dùng “thôi đã thôi rồi”: cách nói giảm nói tránh để giảm bớt nỗi đau mất bạn. Qua đó thấy được nỗi đau xót của tác giả không chỉ khu trú riêng tâm hồn tác giả mà còn vượt ra phủ khắp mây trời, biển nước.

Tiếp đến là những hồi tưởng của Nguyễn Khuyến về những kỷ niệm với Dương Khuê thời trai trẻ, những kỷ niệm cùng đỗ khoa cử, cùng làm quan chốn quan trường, cống hiến cho đất nước, là tình cảm kính yêu trước sau không đổi, là cuộc gặp gỡ "duyên trời", là những ngày cùng nhau vui vầy thú tao nhã, ngắm cảnh núi sông, làm thơ, uống rượu, nghe đàn, nghe hát,...Không chỉ chung vui lúc thái bình mà còn cùng hoạn nạn lúc thế sự nhiễu nhương. Tất cả những kỷ niệm ấy đều in dấu sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến, là những thú vui, là những hạnh phúc dẫu thông thường, giản dị thế nhưng lại mang nhiều ý nghĩa sâu sắc với tác giả.

Sau đó là nỗi bàng hoàng, xót xa vì bạn hiền ra đi đột ngột, người đã mất, đứng trước những thú vui vốn là tao nhã, là thú vị khi xưa thì hôm nay cũng trở nên nhạt nhòa, không còn hứng thú, sự trống rỗng đến tột cùng trong tâm hồn tác giả mà không một âm điệu, không một vần thơ, không một thứ rượu ngon nào có thể bù đắp. Các điển cố cùng ngôn từ điêu luyện, âm điệu đậm những nỗi trầm buồn, nuối tiếc xa xăm càng thể hiện được tình nghĩa thắm thiết, sâu sắc của mình với người tri kỷ đã khuất.

Ý nghĩa bài thơ “Khóc Dương Khuê”: Bài thơ Khóc Dương Khuê mang một nỗi niềm tiếc nuối sâu sắc về một tình bạn tri kỉ. "Khóc Dương Khuê” là tiếng khóc xót xa đồng thời thể hiện một tình bạn đẹp và cảm dộng của các nhà nho thuở trước. Thời gian đã phủ bụi mờ lên mọi vật nhưng sau bao thế kỷ, chúng ta vẫn thấy bùi ngùi xúc động khi đọc những vần thơ này. Đây cũng chính là sức sống vượt thời gian của thơ ca Nguyễn Khuyến.

 

Câu 4: Nêu giá trị nội dung của bài thơ “Khóc Dương Khuê”.

Trả lời:

Bài thơ thể hiện xúc động tình bạn tri âm, tri kỷ của hai nhà thơ. Nghe tin bạn qua đời, nhà thơ đã vô cùng đau đớn và những kỷ niệm ngày xưa đã ùa về trong kí ức. Qua bài thơ khóc bạn, tác giả đã bộc lộ tâm trạng cô đơn, những trăn trở day dứt của nhà thơ về nhân tình thế thái.

 

3. VẬN DỤNG (2 câu)

Câu 1: Bài thơ “Khóc Dương Khuê” đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đặc sắc nào?

Trả lời:

Cách nói giảm: Bác Dương thôi đã thôi rồi! , nhằm làm giảm đi những mất mát đau thương.

Biện pháp nhân hóa: Nước mây man mác. Nhằm diễn tả sự ra đi của bạn cũng khiến đất trời thương xót.

Cách nói so sánh: Tuổi già giọt lệ như sương.

Các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối bài thơ. Hàng loạt các câu thơ như: Làm sao bác vội về ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên, ... Để rồi lắng đọng trong những câu thơ hụt hẫng, chơi vơi:

Cách sử dụng lối liệt kê: Có lúc, có khi, cũng có khi… nhằm tái hiện những kỉ niệm về tình bạn thân thiết và tấm lòng của nhà thơ đối với bạn.

Ngoài ra, tác giả đã dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm để diễn tả nỗi đau mất bạn một cách sâu sắc ở đoạn thơ cuối cùng.

 

Câu 2: Tiếng khóc của tác giả trong bài “Khóc Dương Khuê” có ý nghĩa gì?

Trả lời:

Tiếng khóc như là sự giãi bày, làm sống lại những kỉ niệm của tình bạn thắm thiết. Tiếng khóc còn mang cảm hứng nhân sinh của những kẻ bất lực trước cuộc đời.

 

4. VẬN DỤNG CAO (1 câu)

Câu 1: Phân tích Khóc Dương Khuê để cho thấy đây là khoảnh khắc tình bạn quân tử của Nguyễn Khuyến.

Trả lời:

Khóc Dương Khuê là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình.

   Khóc Dương Khuê là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình.

 

   Tình bạn được xếp hạng thứ năm trên thang giá trị Ngũ luân”. Không tình bạn nhân loại khó phát triển bình thường được. Tình bạn quân tử tập hợp chứ không hề hùa. Không đòi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình hạn đậm đà thêm ra: Quy luật tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc hơn chỗ chỗ chưa đứt, số đo giữa vơi với đầy luôn lớn hơn giữa đầy với... chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử, hẳn tình bạn giữa hai người khó lòng hàn gắn và Khóc Dương Khuê khó phô hết chân tình.

   Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “không kết bạn kẽ không bằng mình, thậm chí còn cầu toàn một chiều đến vô nghiệm, kết bạn phải, hơn mình, như mình thì không bằng không kết. Nói tắt một lời thì trong kết bạn, quân tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính nhờ vậy mà vẫn “hòa hợp dù không đồng lòng. Tình trạng ấy thực đã xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.

   Khi kinh thành thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến nhất quyết lui về ẩn dật cho đúng đạo “lúc đạt thì làm tốt cho cả thiên hạ, lúc cùng thì làm tốt cho riêng mình. Trái lại, Dương Khuê giữ đạo quân tử theo cách khác: "quân tử làm quan là làm điều nghĩa” “ mà thời điểm ấy mới cần đến điều nghĩa biết bao! Vả chăng Á thánh đã dạy "Lúc thường giữ cho đúng lề lối, lúc biến linh động theo tình hình. Thế nên Dương không lui về như Nguyễn mà nấn ná thêm sáu đời vua đầy rối ren, không cơn biến nào sánh kịp. Rồi khi Nguyễn phải “dằn tâm” làm “Ông phỗng đá” để “giữ thân” trong lớp vô gia sư bất đắc dĩ ở dinh Kinh lược Bắc Kì thì Dương đường đường là quan Tham Tá của Nha Kinh lược ấy (ông Tham tá nọ hẳn kha mẫn cán nên sau đó mới thăng Tổng đốc Nam Định - Nam Bình rồi về hưu với hàm Binh bộ Thượng thư)1"'.

   Ai cũng biết rằng đối với phe hợp tác (Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ v.v...) Nguyễn Khuyến thường có lời lẽ ác cảm (cả khi họ đã qua đời). Tuy nhiên thánh nhân cũng dạy; “Nước quá trong không cá – xét nét quá không bạn” vì thế Nguyễn Khuyến đã châm chước cho Dương Khuê những khoảnh khắc tình bạn quân tử mà một trong những khoảnh khắc ấy đạt đến cao trào là 38 câu Khóc Dương Khuê.

   Nỗi đau mất mát của ông bật lên thống thiết.

Bác Dương thôi đã thói rồi,

Nước  mây man mác ngậm ngùi lòng ta (câu 1-2)

   Tiếng kêu thảng thốt ấy thật là đầy ắp chân tình. Ông đã quên mình để xót xa tột cùng cho số phận bạn. Người đọc không thể không nhận ra nỗi niềm ấy. Thế nhưng ở bài chữ Hán (bộ phận thơ văn chủ yếu mỗi nhà nho) thì câu đầu là “Dĩ hĩ Dương đại niên” (Thôi rồi bác Dương ơi). Hai chữ “Dĩ hĩ” ở đầu câu ngụ ý tiếc vì “mất người tri kỉ“ hơn tiếc vì ‘‘người tri kỉ mất”. Nếu không trả lại bản gốc chữ Hán, ta dễ nhầm rất nhiều “ý ngầm” của ông Tam Nguyên ngay trong bản Nôm.

   Tiếp theo là 12 câu nhắc những kỉ niệm chung của hai người:

Nhớ tử thuở... điển phần trước sau (câu 3-14)

   Hai mươi năm (1864-1883) giao du tương đắc ấy lull lại bao kỉ niệm êm đềm! Chính những năm tháng đậm đà tình nghĩa ấy cộng với độ lượng quân tử nơi Nguyễn Khuyến mới đủ sức hàn gắn những sứt mẻ hiển nhiên khi mà Dương không đồng chí hướng với Nguyễn để giữ cái "Đạo chưa cùng” như hàng trăm nho sĩ khác, kẻ lui về ẩn dật, kẻ bỏ đi kháng chiến. Sự không bằng lòng của Nguyễn “bọc nhung" trong bốn câu:

Buổi dương cửu... thì thôi mới là (câu 15-18).

   Lời thơ nghe tưởng như kể lễ thật tâm đắc tình họ “tuy hai mà một”, ai ngờ lại là lời chỉ trích không khoan nhượng, bấm  đúng vào “yếu huyệt” của ke sĩ; đạo xuất xử của người quân tử. Lời trách nhẹ nhàng như có mà như không, tất cả chỉ găm chặt vào hai tiếng mới là! Nếu không rõ hành trạng của mỗi người, ta rất dễ “mắc lỡm” lối nói lấp lửng ấy; tuy cùng gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu) nhưng Nguyễn nhận ra để “biết thôi” còn Dương thì... chưa chịu biết! Nguyễn có bổn phận vạch ra điều ấy vì “trách cho tốt ra là cái đạo bạn bè. Tâm lí người đời thì “nghĩa tử là nghĩa tận” nhưng với người quân tử đấy mới là lúc người ta “tính sổ” nhau thật thẳng thắn vồ “tăm tiếng” lẫn về “tai tiếng” đế còn răn đời; Bởi vì "đậy áo quan công luận mới xác định” (có lẽ vì thế mà tập quán A Đông trọng ngày chết trơn trọng ngày sinh như Au Tây chăng

   Lời thơ giải thích cho việc ngại đi lại là vì tuổi tác:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhá

Trước ba năm gặp bác một lần (câu 19-20)

   Trước ba năm, ấy là lúc Nguyễn 65, Dương 61. Liệu có đúng là cả hai đã “già”, đã “nhác đi lại” không? Đừng quên rằng với hàm trí sĩ một Tham tri như Nguyên, một Thượng thư như Dương, khái niệm “để lại” của họ chỉ giới hạn trong việc bước xuống thuyền hay ngồi lên cáng, vây quanh tiểu đồng, là học trò, là giai nhân, là... một trọng khoa bảng, danh vọng. Tôi nghĩ rằng hai Liếng mới ở câu 18 thực sự “chịu trách nhiệm” việc nhác “đi lại” của họ chứ không phải hai tiếng tuổi già ở câu 19, bằng cớ là ở bản chữ Hán, tuổi già hoàn toàn... ngoại phạm: Vãng lai bất xác đác”. (Qua lại không... thật đặng). Cách đặt câu đến lạ! Nếu dùng trong bài thi, chắc gì ông đỗ Tam Nguyên nhưng trong Khóc Dương Khuê thì đừng thế nghe mới xứng Tam Nguyên!

   Có lẽ họ “nhắc đi lại” vì còn lí do khách quan nữa: Cả hai đều ngại gảy ghi ngờ cho dư luận lẫn thực dân, trừ lẩn gặp nhau hồi ba năm trước rất có khả năng là chuyện bất khả kháng: Đám tang vợ Nguyễn Khuyến. Và như vậy, câu “Trước ba năm gặp bác một lần” độ nhấn tất phải năm vào chữ một, đó là trường hợp "bất qui tắc” của “Qua lại không... thật đặng”.

   Dù sao thì chuyện cũng thật buồn. Người bạn duy nhất còn lại 131, thật ra chỉ còn... phân nửa tình bằng hữu, chợt cũng qua đời nốt! Nguyễn Khuyên cảm thấy bơ vơ thật sự, bàng hoàng thật tình, ông như hóa bụa thêm lần nữa, cái chết vốn gợi lòng trắc ẩn, mà “lòng trắc ẩn lù đầu mối của đức nhân,  đức Nhân đem lại là nền tảng của Ngũ thường  người quân tử nào thảng thấm nhuần điều đó. Thế nên những ray rứt của ông (câu 19-28) rất “cận nhân tình”. Mất Dương Khuê, liệu trên đời có còn ai hiểu Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khóc Bảo Thúc  Khổng Minh khóc Chu Du cũng đều bởi lẽ ấy: “Quen biết đầy thiên hạ, hiếu lóng chẳng má người”. Việc Nguyễn Khuyến chẳng còn thiết gì rượu, thơ, giao (câu 29-34) là chuyện hoàn toàn dễ thông cảm. Bút mực Tam Nguyên nhân vậy mà có dịp cống hiến cho đời những vần thơ thấm tình bằng hữu.

   Ở bốn câu kết, thái độ quân tử của Nguyễn Khuyến mới thật rạch ròi, sòng phẳng đến lạ lùng (theo góc nhìn của chúng ta).

   Bác chẳng ở... hai hàng chứa chan (câu 35-38).

   Ông ấy thế là chết thật rồi. Tôi chí nhớ (những kỉ niệm cũ) chứ không thương, không khóc. Y sờ sờ là thế nhưng ma lực của lời lẽ bản Nôm cứ lôi người đọc theo lòng tha thứ hơn là tỉnh táo nhận ra đạo thẳng thắn của tác giả. Cái tài ông Tam Nguyên thật đáng nể. Hãy thử phân tích một câu:

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

   Chữ tuy vốn phủ nhận nhất thời cái ý đi kề sau nó (ví dụ: tuy giàu nhưng bủn xỉn, tuy nghèo mà xài sang...). Vậy là ông “nhác khóc”, có chung lí do với “nhắc đi lại” Thẳng thắn đến thế thật quá đáng! Như suy lòng ta để phê phán lòng quân tử lại quá đáng hơn.

   Vậy Khóc Dương Khuê đích thực là khoảnh khác tình bạn quân tử. Tình bạn ở họ vốn chuẩn mực, lí trí. Họ “nhanh nhạy trong công việc mà thận trọng trong lời cân nhắc giữa hai bản Hán và Nôm, ta thấy Khóc Dương Khuê là đem lòng tha thứ làm dịu đi dạo thẳng thắn quá căng ở nguyên tác. Ít ai chịu nhận ra ý đồ ấy vì người đời quen nghĩ rằng khóc là việc của tình cảm đơn thuần, quân tử, Tam nguyên gì cũng thế thôi, Nguyễn Khuyến vận dụng đúng đắn “đạo thẳng thắn và tha thứ“ của người quan tử vào cả hai bài nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Rốt cuộc, quân tử vẫn đủ chất quân tử mà không làm chạnh lòng những “phi quân tử”. Không độc đáo được thế thì tài Tam nguyên còn kể làm gì!

   Cũng nên biết thêm rằng trong nguyên tác. Nguyễn Khuyến xưng mành là dư chứ không xưng ngã. Xưng dư nghe lãnh đạm hơn, có thể phiếm xưng với cả người không quen biết (Kiểu Chu Hi mở đầu bài tựa Kinh Thi: “Hoặc hữu vấn ư dư viết”. Nếu ai đó hỏi Ta rằng...). Cũng trong nguyên tác, Nguyên gọi Dương vỏn vẹn hai lần bằng chữ Quân thích đáng, phải chăng (để nhắc quãng ngày thân thiết), còn bảy lần xưng hô tiếp theo (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36) ông đều gọi bằng công là cách thường dùng ở ngôi thứ ba và chỉ dùng xưng hô trực tiếp khi cố tránh vẻ mặn mà. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành “bác” cho cả quân lẫn công, thế là ông “quân tử thêm phen nửa”, vẻ lạnh nhạt của ông đã che chắn khéo léo, cảnh “hòa nhi bất " căng ít bị nhận ra càng hay. Chính vì thế mà Khóc Dương Khuê càng thực thụ là khoảnh khắc tình bạn quân tử.

   Cái kiểu “giận thì giận mà thương thì thương” ấy thật chẳng nhất quán, chăng đồng bộ chút nào, nhưng phải thế mới cân bằng giữa lí trí với tình cảm. Với chúng ta, điều ấy nghe rất chướng nhưng đạo quan tử thà đành phải thế. Chồ đặc sắc của Khóc Dương Khuê là nó làm vừa lòng cả hai phía cảm thụ: phía thích nghĩ răng Nguyễn nẫu cả lòng vì thương bạn lẫn phía nhận ra rằng người thực sự chẳng thương bạn mà chỉ không kìm nổi xúc động vì “chút nghĩa”. Chính khả nâng hai chiều ấy mới làm đậm dấu ấn Tam Nguyên. Cái lối người đọc vốn là thú sở trường của Nguyễn Khuyến (nhất là trong lĩnh lạc câu đối). Cũng đừng quên rằng đâỵ là bài thơ tự sự riêng tư chứ không phải nét để chia buồn, để truy điệu theo kiểu thù tạc đời thường. Rất có thể tang gia họ Dương vào thời điểm ấy chưa mấy ai biết đến.

   Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “bảo là khóc nhưng cuối cùng nhác khóc thì thà đừng khóc”. Nghĩ như thế là dựa lập trường “phi quán tử” để phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến cũng như trong cuộc đời và đánh mất đi của cõi đời một kiệt tác về Tình Bạn vậy.

 

Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều
Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều

Đang liên tục cập nhật....

=> Giáo án ngữ văn 9 cánh diều

Từ khóa: Câu hỏi và bài tập tự luận ngữ văn 9 cánh diều, bài tập ngữ văn 9 CD, bộ câu hỏi tự luận ngữ văn 9 cánh diều

Tài liệu quan tâm

Chat hỗ trợ
Chat ngay