Câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 cánh diều Ôn tập Bài 3: Kịch bản chèo và tuồng (P3)

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập Bài 3: Kịch bản chèo và tuồng (P3). Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 cánh diều.

Xem: => Giáo án ngữ văn 10 cánh diều (bản word)

ÔN TẬP BÀI 3

KỊCH BẢN CHÈO VÀ TUỒNG

Câu 1: Nêu xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Mắc mưu Thị Hến ?

Trả lời:

Đoạn trích “Mắc mưu Thị Hến” được trích trong vở tuồng nổ tiếng “Ngao, Sò, Ốc, Hến”

Câu 2: Phương thức biểu đạt của tác phẩm Mắc mưu Thị Hến là gì ?

Trả lời:

 Phương thức biểu đạt: tự sự

Câu 3: Em có nhận xét gì về ý nghĩa của vở tuồng Mắc mưu Thị Hến?

Trả lời:

- Thị Hến là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại, mưu trí, ứng biến mọi tình huống rất tinh tế và vô cùng khôn khéo.

- Thầy Để, Nghêu, Quan Huyện:  tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

Câu 4: Đâu là yếu tố tạo nên tiếng cười cho vở tuồng ?

Trả lời:

Tình huống tạo ra nụ cười trong đoạn trích: căng thẳng, đầy bất ngờ, khiến những người gây cười phải "vạch áo cho người xem lưng".

Nụ cười trong đoạn trích được thể hiện thông qua ngôn ngữ, cử chỉ của từng nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ mỉa mai và châm biếm trong cách diễn đạt của từng nhân vật.

=> Ngôn ngữ và cử chỉ giúp người đọc hình dung được tư thế và hành động của từng nhân vật, đồng thời thể hiện sự hoảng sợ, bất an, cảm giác cười khi việc gian lận bị "lật mặt", nhận ra sự tương phản giữa tình huống trước và sau khi bị phơi bày.

* Đặc điểm các nhân vật:

- Người dân kể chuyện đã thể hiện sự thông cảm với nhân vật Thị Hến, lên án thái độ tham lam của Nghêu, Đề Hầu và Huyện Trìa.

- Thị Hến là một phụ nữ khôn ngoan, tinh tế, lanh lợi, khiến những người lơ đãng và tham lam bị quyến rũ. Bằng cách tự mình tiết lộ, tố giác lẫn nhau, cô ta vừa khéo léo lật mặt kẻ nào tới nhà, vừa khiến những kẻ rình rập và quấy rối bị nhấn chìm vào sự xấu hổ. Điều này giúp cô duy trì phẩm hạnh và vẻ thanh cao của mình.

Câu 5: Những câu hát trong vở chèo Xúy Vân giả dại đã thể hiện được tâm trạng gì của nhân vậy ?

Trả lời:

- Câu hát thể hiện nỗi đau khổ, sự cô đơn, vô nghĩa trong cuộc sống

- Câu hát thể hiện sự thất vọng trước mâu thuẫn giữa ước mơ hạnh phúc tốt đẹp và thực tế phũ phàng.

- Câu hát thể hiện nỗi ân hận, xót xa và hối lỗi, tự trách của Xúy Vân

Câu 6: Em có nhận xét gì sau khi tìm hiểu tác phẩm Xuý Vân giả dại ?

Trả lời:

Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại thể hiện tâm trạng đau khổ, thất vọng, xót xa và hối lỗi trong cuộc đời lạc lõng, cô đơn, vô nghĩa. Các câu hát trong vở chèo cũng thể hiện tâm trạng của Xúy Vân một cách sâu sắc và tinh tế. Vở chèo Xúy Vân giả dại là một tác phẩm đáng xem và phân tích về tâm lý nhân vật.

Câu 7: Nêu một số thông tin về thể loại chèo cổ của Việt Nam ? Và một vài tác phẩm tiêu biểu ?

Trả lời:

Chèo cổ còn được gọi là chèo truyền thống hay chéo sân đình, là một thể loại sân khấu kịch hát dân gian đặc sắc, sản phẩm nghệ thuật của nông thôn các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo là nghệ thuật tổng hợp, phối hợp nhuần nhuyễn giữa kịch bản, lời hát, động tác múa và âm nhạc.

Phần quan trọng nhất trong một vở chèo là kịch bản (tích chèo), "có tích mới dịch nên trở", song sự hấp dẫn của chèo là ở nghệ thuật biểu diễn chứ không chỉ ở kịch bản. Mỗi vở chèo thường có một hoặc vài cảnh đặc sắc, thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm. Ví dụ : ở vô Quan  m Thị Kính là cảnh Thị Mầu lên chùa và Việc làng ; ở vô Chu Mãi Thần là cảnh Tuần Ti – đào Huế, ở vô Km Nham là cảnh Xuý Vân giả dại.... Đoạn trích Xúy Vân giả dại là một trong những đoạn hay nhất của chèo cổ Việt Nam.

Câu 8: Giá trị nghệ thuật của tác phẩm Xuý Vân giả dại là gì ?

Trả lời:

- Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt

- Thành công trong xây dựng tâm lý nhân vật

Câu 9: Nêu xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác Xuý Vân giả dại?

Trả lời:

- Tác phẩm được trích chèo Kim Nhan

Câu 10: Tìm những từ ghép thuần Việt tương ứng với các từ Hán Việt sau đây: thiên địa, giang sơn, huynh đệ, nhật dạm phụ tử, quốc gia , sinh tử, ca sĩ, phụ huynh?

Trả lời:

Từ Hán Việt

Từ thuần Việt tương ứng

thiên địa

trời đất

giang sơn

sông núi, nước non

huynh đệ

anh em

nhật dạ

ngày đêm

phụ tử

cha con

quốc gia

nhà nước

sinh tử

sống chết

ca sĩ

người hát

phụ huynh

cha mẹ

Câu 11: Phân tích các lỗi lặp từ, lặp nghĩa, lỗi dùng từ không hợp với phong cách ngôn ngữ trong các câu sau và sửa lại cho đúng:

  1. Vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến là một trong những tác phẩm tuyệt tác.

  2. Mắc mưu Thị Hến, con đường hoạn lộ làm quan của Huyện Trìa thế là liệu có chấm hết?

  3. Bạn ấy đại diện thay mặt cho những người có thành tích học tập xuất sắc nhất.

  4. Đó là bức tối hậu thư cuối cùng mà cảnh sát đưa ra cho nhóm tội phạm đang lẩn trốn.

Trả lời:

  1. Từ tác phẩm không dùng cùng từ tuyệt tác.

  2. Cụm con đường hoạn lộ, ở đây lộ cũng có nghĩa là con đường.

  3. Bỏ từ thay mặt.

  4. Bỏ từ cuối cùng.

Câu 12: ìm từ Hán Việt trong những câu dưới đây (trích tùy bút Cây tre Việt Nam của Thép Mới). Xác định nghĩa của các từ Hán Việt đã tìm được và nghĩa của mỗi yếu tố cấu tạo nên các từ đó.

  1. a) Tre ấy trông thanh cao, giản dị ... như người.

  2. b) Dưới bóng tre xanh, ... người dân cày ... dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang.

  3. c) Tre là cánh tay của người nông dân.

  4. d) Tre là thẳng thắn, bất khuất.

Trả lời:

  1. a) thanh cao (thanh: trong sạch, thuần khiết; cao: hơn hẳn mức bình thường về phẩm chất).

giản dị (đơn giản, không phiền phức, xa hoa).

  1. b) khai hoang (mở mang, khai phá ruộng đất).

  2. c) nông dân (người làm ruộng).

  3. d) bất khuất (không chịu khuất phục).

Câu 13: Tìm ba từ ghép Hán Việt có yếu tố cấu tạo là bất (như bất trong bất khuất) và ba từ ghép Hán Việt có yếu tố cấu tạo là nông (như nông trong nông dân). Xác định nghĩa của các từ tìm được.

Trả lời:

Ba từ ghép Hán Việt có yếu tố cấu tạo là bất:

Bất khả

Bất cửu

Bất nhiên

Ba từ ghép Hán Việt có yếu tố cấu tạo là nông

Nông nghiệp

Nông thôn

Nông gia

Câu 14: Nêu bố cục của bài Thị Mầu lên chùa?

Trả lời:

- Phần 1: từ đầu đến “có ai như mày không”: Thị Mầu khi đi lên chùa

- Phần 2: Còn lại: Nhân vật Tiểu Kính

Câu 15: Những hành động và ngôn ngữ của Thị Mầu được miêu tả như thế nào ?

Trả lời:

- Hành động của Thị Mầu: xông ra nắm tay chú tiểu

- Ngôn ngữ thể hiện Thị Mầu: của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”

Câu 16: Qua đoạn trích của vở chèo ta thấy được Xúy Vân là người như thế nào?

Trả lời:

Mô tả nhân vật Xúy Vân: đẹp người, đẹp nết, là con gái của viên huyện Tể. Xúy Vân là nhân vật chính trong vở chèo Xúy Vân giả dại. Tâm trạng của Xúy Vân phản ánh những cảm xúc phức tạp của một người phụ nữ trong tình trạng bế tắc cuộc đời.

Câu 17: Diễn biến tâm trạng của Xúy Vân trong vở chèo diễn ra như thế nào ?

Trả lời:

- Sự đau khổ của Xúy Vân trong tình huống hôn nhân ép buộc, không có tình yêu

- Niềm mong ước của Xúy Vân về một cuộc sống gia đình hòa hợp, hạnh phúc

-  Nỗi thất vọng, xót xa và hối lỗi, tự trách của Xúy Vân sau khi tin tưởng Trần Phương, người đã bày kế xuý Vân giả điên để tìm kiếm hạnh phúc và thoát khởi nhà chồng, nhưng cuối cùng lại bị bỏ rơi.

- Cảm giác xấu hổ, hối hận vì đã giúp Kim Nham đi theo Trần Phương cũng thể hiện tâm trạng của Xúy Vân. Cô mong muốn trở thành người vợ tốt, con dâu ngoan, đồng thời bày tỏ sự mong mỏi và hi vọng về cuộc sống vợ chồng hạnh phúc.

- Xúy Vân cũng cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Hình ảnh con gà rừng ăn thịt con công được dùng để miêu tả Xúy Vân trôi dạt, tăng thêm cảm giác cô đơn của cô.

Câu 18: Viết một bài văn phân tích Tâm Trạng Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại ?

Trả lời:

Chèo là một hình thức kịch hát dân gian đa năng và phổ biến nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với sự kết hợp của nhiều yếu tố nghệ thuật như hát, múa, diễn, chèo được coi là một sản phẩm nghệ thuật đa tài. Với nguồn gốc từ các tầng lớp trí thức bình dân, chèo thường nhấn mạnh vào giá trị mộng công danh, học hành và sự đỗ đạt trong sự nghiệp làm quan, những ước mơ được các trí thức xưa trân trọng. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của chèo, "Kim Nham" là một trong những vở được yêu thích nhất. Trong đó, trích đoạn "Xúy Vân giả dại" là một trong những trích đoạn được đánh giá cao và đã được sử dụng trong chương trình học của học sinh trung học phổ thông. Đây là một trích đoạn tiêu biểu cho sự tập trung vào bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của nhân vật Xúy Vân, được thể hiện một cách đặc sắc. Các vở chèo như "Quan  m Thị Kính”, “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần” và "Kim Nham” đã trở thành những tác phẩm nổi tiếng và được nhiều thế hệ yêu mến. Mỗi khi mùa gặt bội thu hay đầu xuân về, nhiều làng quê tổ chức hội chèo, khiến tiếng trống chèo vang lên sau những cây lùm tre xanh, gợi lên những cảm xúc sâu sắc trong lòng người dân:

"Những cơn mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan rụng đầy đất trắng tay

Hội chèo đến làng Đặng ngang qua

Mẹ bảo: "Tối nay làng Đoài chèo..."

(Nguyễn Bính)

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật hát, múa và diễn xuất. Những điệu chèo rất phong phú và đa dạng, lời chèo cũng thấm nhuần với ca dao và dân ca một cách tài tình. Các trích đoạn như "Thị Mầu lên chùa”, "Xuý Vân giả dại”, "Thị Phương dắt mẹ chồng chạy giặc” và “Tuần Tý gặp đào Huế” đã trở thành những đoạn diễn xuất được nhiều người yêu thích và muốn xem mãi không chán. Trích đoạn "Xuý Vân giả dại" nằm trong phần hai của vở chèo “Kim Nhan”. Sau một thời gian xa chồng, Xuý Vân đem lòng yêu Trần Phương và bị dụ dỗ, nàng giả điên giả dại, lập mưu để Kim Nhan li dị. Với ánh mắt bốc lửa, giọng hát đầy cảm xúc, những bước đi, những điệu múa, và những cánh tay múa... như điên cuồng, nhân vật Xúy Vân đã để lại nhiều ấn tượng về lửa tình, về bi kịch tình yêu trong lòng khán giả. Nhiều nghệ sĩ chèo đã trở nên nổi tiếng nhờ vai diễn này.

Xuý Vân bắt đầu xuất hiện trong vở kịch với tâm trạng lệch lạc, từ nói lệch đến hát xuôi, cảm xúc của cô quay cuồng trong trạng thái dở tỉnh dở điên, dở ngây dở dại. Cô hát về con đò, biểu hiện cho một cô gái đang chờ đợi chồng, đang đợi chồng đi xa, buồn lo vì sợ tuổi xuân trôi qua. Những câu tiếp theo là những câu thơ lục bát phá thể, biến thể, thể hiện tâm trạng đầy bi kịch của người con gái đã có chồng và muốn dứt bỏ mối duyên tình cũ. Xuý Vân thổ lộ mối tình “gió giăng” của mình và niềm tin sẽ cùng với tình nhân “gió giăng” sống đến đầu bạc răng long, trọn vẹn “đạo hằng” thuỷ chung. Tâm trạng “nổi loạn” ấy của Xuý Vân cho đến nay vẫn còn làm cho nhiều khán giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Sau khi được hỏi vai diễn và tiếng đế hô ứng của khán giả, Xuý Vân mới xưng danh và tiết lộ về bản thân và công việc của mình. Cô cũng hát điệu “hát con gà rừng” thể hiện một duyên phận trớ trêu. Cô tự cho mình là con quan, cao môn lệnh tộc, còn Kim Nhan là con nhà nghèo hèn, cục mịch tầm thường.

Xúy Vân là một người phụ nữ ngây thơ, dại khờ và luôn trong tâm trạng u uất, đau buồn vì không tìm được người "đồng sàng cộng chẩm". Tình cờ, nàng đã gặp Trần Phương và cảm thấy như đã tìm được người tri kỉ, cảm thông và yêu mến mình. Nhưng cuộc đời thật không như mơ, Trần Phương không phải là một người đàn ông tốt. Sau khi lừa dối được tình cảm của Xúy Vân, hắn ta đã xúi nàng giả điên giả dại để nhà chồng viết giấy từ hôn, hy vọng rằng hai người sẽ đến với nhau và có một cuộc sống hạnh phúc. Xúy Vân đã ngây thơ tin những lời hứa suông và giả điên mong sao chồng bỏ mình. Tuy nhiên, chồng nàng - Kim Nham không bỏ cuộc, chàng đã tìm thầy thuốc giỏi khắp nơi để chữa trị cho nàng. Nhưng bệnh của Xúy Vân là do cố ý sắp đặt, không phải bệnh thật, do đó, không có phương pháp chữa trị nào có tác dụng. Cuối cùng, Kim Nham buộc phải viết giấy từ hôn với nàng.

Sau khi bỏ chồng, Xúy Vân phải chịu sự thật đau lòng rằng Trần Phương không hề lấy nàng như đã hứa mà vứt bỏ nàng như một thứ đồ dùng cũ kĩ. Sự đả kích đó quá lớn đối với Xúy Vân, nàng không thể chịu đựng được và từ giả dại sang phát điên vì tình. Mặc dù Xúy Vân có lỗi khi bỏ chồng theo Trần Phương nhưng cô cũng đáng thương vì tin tưởng người khác một cách đầy dại khờ. Nàng đã tự hát về mình: "Tôi không trăng gió nhưng gặp người gió trăng". Mặc dù Xúy Vân không phải là một người lẳng lơ, nhưng cô lại không yêu chồng mình - Kim Nham và yêu Trần Phương say đắm.

Những hình ảnh và sự vật trong đoạn trích này được liên kết một cách bất thường và không hợp lý, chỉ có những người ngu đần mới không thể phân biệt được đâu là ngược và đâu là xuôi. Câu nói vô nghĩa được kết hợp với hành động điên dại và cười, tăng thêm sự bùng nổ của tâm trạng rối bời, tuyệt vọng và mất phương hướng.

Trong khi đó, khi theo dõi toàn bộ văn bản, ta đồng cảm với Xúy Vân, cảm thấy thương tiếc cho cô vì rơi vào cuộc hôn nhân sắp đặt không có tình yêu và trách móc cô vì không biết giữ phẩm hạnh. Đoạn trích này nhấn mạnh vào sự chung thủy trong mối quan hệ vợ chồng, đồng thời cảm thông với thân phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Mặc dù Xúy Vân có khát khao hạnh phúc chính đáng, nhưng không thể thực hiện nó trong thời kỳ đề cao nam quyền. Tuy nhiên, khi hiểu và thông cảm cho nhân vật này, ta có thể nhận ra nội dung và ý nghĩa sâu sắc, nhân văn của đoạn trích.

Câu 19: Viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về chủ đề: một vấn đề cuộc sống mà em quan tâm. Sau đó liệt kê những từ Hán Việt đã được em sử dụng trong bài văn ?

Trả lời:

Trong cuộc sống của mỗi con người muốn đạt được thành công, chúng ta không thể thiếu bản lĩnh. Vậy bản lĩnh là gì và tại sao lại đóng vai trò quan trọng đến vậy? Bởi bản lĩnh là những vấn đề quyết định một cách độc lập, không vì áp lực bên ngoài mà dễ dàng thay đổi. Một con người bản lĩnh luôn dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với thử thách khó khăn và không bao giờ chối bỏ trách nhiệm của mình. Nhờ vậy, trên đường đời với vô số chông gai, họ luôn giữ cho mình một tinh thần sắt đá, phong thái điềm tĩnh, sự kiên định đáng ngưỡng mộ và dễ dàng dành được sự tín nhiệm, tôn trọng từ những người xung quanh. Oprah Winfrey là một tấm gương tiêu biểu. Sinh ra tại một khu ổ chuột, lớn lên với người cha nghiện ngập, thậm chí đã từng bị xâm hại tình dục, bà vẫn kiên cường vượt qua mọi định kiến, gian nan để trở thành tỷ phú da màu ở tuổi 40 cũng như truyền cảm hứng cho biết bao mảnh đời bất hạnh. Tuy nhiên trong xã hội ngày nay vẫn còn một số người thiếu bản lĩnh trong cuộc sống, ngại khó, ngại khổ, luôn đổ lỗi cho số phận. Chính vì vậy họ mãi mãi không bao giờ chạm đến ngưỡng cửa thành công. Bản thân mỗi chúng ta hiểu được giá trị của bản lĩnh vì vậy cần xây dựng cho riêng mình một bản lĩnh vững vàng bằng cách không ngừng trau dồi tri thức, kĩ năng sống cũng như nhân cách. Hơn tất thảy, tuyệt đối không được nhầm lẫn giữa bản lĩnh với sự tự phụ hay bảo thủ. Bởi như John Ruskin từng nói, “ bản lĩnh là sự hợp nhất của kinh nghiệm, trí tuệ và đam mê trong guồng hành động”.

Từ Hán Việt: bản lĩnh, độc lập, điềm tĩnh, bất hạnh, nhân cách,..

Câu 20: Viết một bài văn phân tích tình huống  Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc mưu Thị Hến?

Trả lời:

Trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, tuồng đồ là một loại hình biểu diễn nghệ thuật độc đáo. Mặc dù đã ra đời từ lâu, vở tuồng "Nghêu, Sò, Ốc, Hến" vẫn giữ vị trí quan trọng trong lòng khán giả Việt Nam. Với lớp XIX, cũng là lớp cuối cùng của tác phẩm, đoạn trích "Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến" đã tiết lộ những thói hư tật xấu của một số tầng lớp trong xã hội xưa.

Trích đoạn "Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến" xoay quanh việc Sư Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa đến nhà Thị Hến vào ban đêm để tư tình với thị. Thị Hến tận dụng thói háo sắc của ba người để chấm dứt mọi sự quấy rối, phiền hà.

Ngay từ đầu, qua lời nói của Thị Hến, ta có thể hình dung bối cảnh câu chuyện và tình huống sắp diễn ra. Sư Nghêu là tên sãi chọc phá giới. Vì quá khó chịu, bực tức với Huyện Trìa, Sư Nghêu, Đề Hầu, Thị Hến suy nghĩ về việc chơi ba người một vố thật đau nhằm "giữ tiết hạnh một đường cho toại".

Khi trời đã về đêm, đường sá tối om, Sư Nghêu vẫn mò đến nhà Thị Hến. Đến cửa, hắn gọi vào "Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!". Thị Hến đon đả, mời nước tìm cách trì hoãn. Thầy Nghêu đam mê sắc dục, đi ngược lại đạo đức, phẩm hạnh của kẻ tu hành, nên quyết "Kệ kinh chuông mõ trả cho cho chùa", khuyên Thị Hến không nên phụ tấm lòng của hắn mà giao duyên kết đôi. Tà dâm, háo sắc là điều cấm kỵ đối với người tu hành. Vậy mà thầy Nghêu lại bất chấp lí lẽ, phá giới để đi theo quả phụ. Vừa mới nói xong thì có tiếng Đề Hầu kêu cửa, thầy Nghêu lộ bộ mặt hèn nhát. Sợ mọi việc bị bại lộ, hắn bảo Thị Hến chỉ cho mình chỗ trốn. Thị Hến cũng chẳng ngần ngại chỉ "Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó", rồi hứa hẹn "Người về đã, sẽ vầy hai mặt". Ngay lập tức, hắn chui xuống gầm phản.

Tên Đề Hầu vừa vào nhà, hắn liền buông lời trách móc:

"Ơn mỗ cứu cho bữa trước

Nay nường còn nhớ chưa quên?

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,

Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)"

Đề Hầu gợi nhắc Thị Hến nhớ về việc đã giúp thị trong vụ án trước đó. Rõ ràng Thị Hến không quên bổn ân ấy, nhưng nhanh chóng kết duyên với ông Huyện, thể hiện lòng biết ơn thầy Đề. Thị Hến thông minh và khéo léo đáp lại, dùng lý do Huyện Trìa ra lệnh để bắt lòng nghe theo. Đề Hầu, dù đã có vợ nhưng vẫn không kham tiếng tán tỉnh phụ nữ khác. Dù người ta không hài lòng, hắn quyết "Vậy thì không mắng, vẫn tiếp tục".

Khác hẳn với lúc hắn nói lời án tử với người tu phá giới, khi nghe tiếng Huyện Trìa bên ngoài, hắn hoảng sợ "Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!/ Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!". Vì quá sợ bị phát hiện việc xấu, hắn ngay lập tức bỏ chạy.

Dù mang danh quan to nhưng Huyện Trìa không khác Đề Hầu hay Sư Nghêu chút nào. Vừa bước chân vào nhà Thị Hến, hắn đã giải thích lý do tới muộn. Huyện Trìa sử dụng lí do về thuế má, án từ và cả đường tối tăm để nói lý do hắn bị mụ Huyện giữ lại ở nhà. Sau một chút thổ lộ, Thị Hến lại dùng cách quen thuộc với tên Huyện Trìa. "Rầy có chú thầy tu rất chạ/ Hay đến nhà mà ve bà góa/ Đã xuất gia phá giới làm vơ,/ Thời luật pháp xử chi cho rõ?".

Phán quyết đối với kẻ tu phá giới qua lời nói của Huyện Trìa lại nhẹ hơn nhiều so với lời phán của Đề Hầu - bằng roi. Điều này khiến thầy Nghêu rất mừng, hắn mỉm cười với Huyện Trìa. Hắn cho rằng Huyện Trìa là người cha thật thà của dân, trong khi Đề Hầu thì chỉ biết nói lời bậy. Đề Hầu biết mình bị Thị Hến chơi xỏ, lườm mắt ra ngoài và nhận lỗi. Cuối cùng, cả ba chạm mặt nhau, xấu hổ và thất vọng khi bị mụ đàn bà chơi khăm. Huyện Trìa lúc này không khác gì quan công đường, nói ai về nhà nấy, nhắc lòng từ nay phải "giữ tiết hạnh".

Kết quả, cả ba người Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu đều phải thua trước sự thông minh và sắc sảo của Thị Hến. Có thể thấy, Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu dù có vị trí quan trọng trong xã hội, nhưng họ đều có bản tính xấu xa, háo sắc. Với những tình tiết gây cười cùng ngôn từ đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân, tác giả dân gian đã chỉ trích và châm biếm thói hư tật xấu của một số tầng lớp trong xã hội xưa. Đồng thời, vinh danh vẻ đẹp tinh thần của phụ nữ.

Thông qua vở tuồng "Nghêu, Sò, Ốc, Hến", ta cũng cảm nhận sâu hơn về cuộc sống của người dân xưa. Những tiếng cười chua cay của đoạn trích "Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến" chắc chắn sẽ trở thành "món ăn tinh thần" không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay