Đề thi giữa kì 1 ngữ văn 11 cánh diều (Đề số 15)

Ma trận đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn 11 cánh diều Giữa kì 1 Đề số 15. Cấu trúc đề thi số 15 giữa kì 1 môn Ngữ văn 11 cánh diều này bao gồm: đọc hiểu, viết, hướng dẫn chấm điểm, bảng năng lực - cấp độ tư duy, bảng đặc tả. Bộ tài liệu tải về là bản word, thầy cô có thể điều chỉnh được. Hi vọng bộ đề thi này giúp ích được cho thầy cô.

Xem: => Giáo án ngữ văn 11 cánh diều

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

Năm học: 2025-2026

Môn: Ngữ văn 11

TTNăng lực

Nội dung kiến thức – đơn vị kĩ năng

Số câu

Cấp độ tư duy
Nhận biết

Thông

hiểu

Vận dụng

Tổng

%

Số

câu

Tỉ lệ

Số

câu

Tỉ lệ

Số

câu

Tỉ lệ
I

Năng lực

Đọc

Văn bản thơ

(ngoài SGK)

5220%225%115%60%
IIViếtViết bài văn nghị luận văn học110%10%15%40%
Tỉ lệ 40%30%30%100%
Tổng7100%

Bản đặc tả yêu cầu các kĩ năng kiểm tra, đánh giá

TTKĩ năngĐơn vị kiến thức/Kĩ năngMức độ đánh giáSố câu hỏi theo mức độ nhận thức
Nhận biếtThông hiểuVận dụng

1

Đọc hiểu

Đọc hiểu văn bản thơ lãng mạn 

Nhận biết: 

- Nhận biết được nhân vật, yếu tố trữ tình trong thơ

- Nhận biết được đề tài, chủ đề thơ

- Nhận biết được các thủ pháp nghệ thuật trong thơ

- Nhận biết được yếu tố ngôn ngữ thơ trang trọng, lỗi câu mơ hồ trong văn bản thơ

- Nhận biết đặc điểm ngôn ngữ Tiếng Việt

Thông hiểu:

- Nắm bắt được nội dung, đề tài, chủ đề của bài thơ

- Lí giải được vai trò của những chi tiết quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản. 

- Lí giải được vai trò của yếu tố nghệ thuật 

- Nêu được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc. 

- Phát hiện và lí giải được giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ; giá trị văn hoá, triết lí nhân sinh từ tác phẩm.

Vận dụng:

- Vận dụng được kinh nghiệm đọc, trải nghiệm về cuộc sống và kiến thức văn học để đánh giá, phê bình văn bản văn học, thể hiện được cảm xúc, suy nghĩ của cá nhân về văn bản văn học. 

- Đánh giá được giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ của tác phẩm.

- Đặt tác phẩm trong bối cảnh sáng tác và bối cảnh hiện tại để có đánh giá phù hợp. 

- Liên hệ, so sánh, đánh giá được sự giống và khác nhau giữa thơ cổ điển và thơ lãng mạn

- Đánh giá được khả năng tác động của tác phẩm văn học đối với người đọc và tiến bộ xã hội theo quan điểm cá nhân.

2 câu 

2 câu 1 câu 
2 Viết bài văn nghị luận văn học

Nhận biết:

Xác định được yêu cầu về nội dung và hình thức của bài văn nghị luận.

- Xác định rõ được mục đích, đối tượng nghị luận.

- Đảm bảo cấu trúc, bố cục của một văn bản nghị luận.

Thông hiểu:

- Giải thích được những khái niệm liên quan đến vấn đề nghị luận.

- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các luận điểm.

- Kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm.

- Cấu trúc chặt chẽ, có mở đầu và kết thúc gây ấn tượng; sử dụng các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục, chính xác, tin cậy, thích hợp, đầy đủ; đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

Vận dụng:

- Đánh giá được ý nghĩa, ảnh hưởng của vấn đề đối với con người, xã hội.

- Nêu được những bài học, những đề nghị, khuyến nghị rút ra từ vấn đề bàn luận.

- Sử dụng kết hợp các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự sự,… để tăng sức thuyết phục cho bài viết.

- Vận dụng hiệu quả những kiến thức Tiếng Việt lớp 11 để tăng tính thuyết phục, sức hấp dẫn cho bài viết.

1*1*1*1
SỞ GD & ĐT ……………….Chữ kí GT1: ...........................
TRƯỜNG THPT……………….Chữ kí GT2: ...........................

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

NGỮ VĂN 11 – CÁNH DIỀU

NĂM HỌC: 2025 – 2026

Thời gian làm bài: 120 phút (Không kể thời gian phát đề)

Họ và tên: ……………………………………  Lớp:  ………………..

Số báo danh: …………………………….……Phòng KT:…………..

Mã phách
  1. ĐỌC HIỂU (6,0 ĐIỂM)

      Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

LỤC VÂN TIÊN 

(Nguyễn Đình Chiểu)

(Trích) 

Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ (1) hại dân.”
Phong Lai(2) mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng(3) vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy, (4)
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng.”
Vân Tiên tả đột hữu xông(5),
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang. (6)
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. (7)
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này?”
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô, (8)
Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Tiểu thư con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ. (9)
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn(10) phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ nầy, (11)
Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?”
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất (12)tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
Chẳng qua là sự bất bình, (13)
Hay vầy(14) cũng chẳng đăng trình (15) làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. (16)
Trước xe quân tử (17) tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
Chút tôi(18) liễu yếu đào thơ, (19)
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. (20)
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công, (21)
Lấy chi cho phỉ(22) tấm lòng cùng ngươi.”
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Này đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng(23)

(Nguyễn Đình Chiểu, Truyện Lục Vân Tiên, trong Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1980)

Chú thích 

(Tóm tắt tác phẩm: Lục Vân Tiên quê ở quận Đông Thành, khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đỉnh mở khoa thi, Văn Tiên từ giã thấy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiểu Nguyệt Nga. Cảm ăn đức ấy, Nguyệt Nga đã tự nguyện gắn bó suốt đời với Vân Tiên và tự tay về một bức hình chàng giữ luôn bên mình. Còn Vân Tiên tiếp tục hành trình, gặp và kết bạn với Hơn Minh, một sĩ tử khác.

Sau khi về thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hàm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hàm, Kiệm sinh lòng đố kị ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi. Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liên bỏ thị trở về quê chịu tang. Dọc đường về,Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mất, lại bị Trịnh Hâm lửa đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bài, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cưu mang. Sau đó chàng lại bị cha con Võ Công hàm hại đem bỏ vào hang núi Thương Tông. Được Du thần và ông Tiểu cứu ra, Vân Tiênmay mắn gặp lại Hớn Minh (vì trừng trị cậu công tử con quan ỷ thế làm cần mà Hớn Minh phải bỏ thi sống lẩn lút trong rừng). Hớn Minh đón bạn về nương náu ở nơi am vắng. Khoa thi năm ấy Tử Trực đỗ thủ khoa, trở lại nhà họ Võ hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Võ Công ngỏ ý muốn gả con gái, bị Tử Trực cự tuyệt và mắng thẳng vào mặt, Võ Công hổ thẹn ốm chết.

Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiểu Nguyệt Nga thể sẽ thủ tiết suốt đời. Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại một hai đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng, nương nhờ một bà lão dệt vải.

Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho thuốc, mất lại sáng, liên trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chẳng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Hôn Minh được tiến cử làm phó tưởng. Đánh tan giặc, Vân Tiên một mình lạc trong rừng, đến nhà lão bà hỏi thăm đường và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tàu hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên và Kiểu Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.

Đoạn trích: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện) 

(1) Hồ đồ: lơ mơ không rõ, thiếu căn cứ rõ ràng. Ở đây chỉ thói làm càn, không chính đáng. 

(2) Phong Lai: tên của kẻ cầm đầu bọn cướp.

(3) Lẫy lừng: vang dội, lừng danh, khắp nơi đều biết. Ở đây dùng nghĩa cổ, có nghĩa là dữ dội, hung hăng gây sự.

(4) Mầy: mày (tiếng miền Nam).

(5) Tả đột hữu xông (hữu xung): đánh vào bên trái, xông thẳng bên phải, ý nói thế chủ động tung hoành khi lâm trận.

(6) Triệu Tử phá vòng Đương Dang (Đương Dương): Triệu Vân, tên chữ là Tử Long, một tướng trẻ có tài của Lưu Bị thời Tam quốc. Khi Lưu Bị bị quân Tào đánh đuổi, chạy đến Đương Dương (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), phải bỏ cả vợ con chạy về phía nam. Triệu Vân một mình phá vòng vây của Tào Tháo, bảo vệ A Đẩu, con nhỏ của Lưu Bị.

(7) Thân vong: ý nói chết bỏ mạng (thân: thân xác, vong: mất).

(8) Khôn phô: khó nói, khó mà bày tỏ được hết.

(9) Mang tại bất kì: bất ngờ, thình lình gặp tai nạn.

(10) Khuê môn: cửa phòng của người con gái. Khuê môn phận gái : phận đàn bà con gái ở chốn buồng the, không đi ra ngoài – theo luân lí phong kiến ngày xưa.

(11) Chưa hãn dạ nầy (tiếng miền Nam): lòng này chưa tỏ, chưa biết chắc chắn (hãn: rõ).

(12) Tì tất: đầy tớ gái.

(13) Sự bất bình: việc không bình thường, không may xảy ra ngoài ý muốn của mình, ý nói không ngờ bị bọn cướp bắt.

(14) Hay vầy (tiếng miền Nam): biết như thế này.

(15) Đăng trình: lên đường đi xa.

(16) Ý cả câu: cái trinh tiết, phẩm giá mà người con gái gìn giữ cả một đời bỗng chốc có thể bị phá hỏng.

(17) Quân tử: tiếng người phụ nữ tôn gọi người con trai có tài, có đức thời xưa.

(18) Chút tôi: cái tôi nhỏ bé, một cách nói khiêm tốn để chỉ mình khi xưng hô với người khác. 

(19) Liễu yếu đào thơ: nói thể chất của người con gái mềm mại, yếu ớt.

(20) Đã phần: đã là phần của tôi, ý nói giữa đường gặp phải bọn cướp, lâm vào hoàn cảnh xấu.

(21) Báo đức thù công: báo trả ơn đức, đền đáp công lao.

(22) Phỉ: thoả đáng, xứng đáng, thoả lòng.

(23) Kiến nghĩa bất vi: thấy việc nghĩa không làm. Cả hai câu thơ ý nói thấy việc nghĩa mà bỏ qua không làm thì không phải là người anh hùng.

Câu 1. (1,0 điểm) Xác định ngôi kể trong truyện thơ Nôm trên.

Câu 2. (1,0 điểm) Hình ảnh “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” được khắc họa giống với mô-tip nào trong truyện cổ?

Câu 3. (1,0 điểm) .............................................

.............................................

.............................................
 

Câu 4. (1,5 điểm) Qua hành động đánh cướp và cách cư xử với Kiều Nguyệt Nga, hình ảnh Vân Tiên nổi bật với những phẩm chất nào? 

Câu 5. (1,5 điểm) Khi Kiều Nguyệt Nga định ra đáp lễ trả ơn, Vân Tiên nói gì? Điều đó cho thấy Vân Tiên là người như thế nào? Quan niệm sống của Vân Tiên là gì? Viết đoạn văn khoảng 10 câu chia sẻ về quan niệm sống đó. 

II. PHẦN VIẾT (4,0 ĐIỂM).

Quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên cũng như lí tưởng về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu được thể hiện qua câu thơ nào? Hãy viết bài văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy bàn về quan niệm người anh hùng được đặt ra trong tác phẩm.

---------------------- HẾT ---------------------- 

- Thí sinh không được sử dụng tài liệu; 

- Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.

HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ ĐÁP ÁN

.............................................

.............................................

.............................................
 

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải sẽ có đầy đủ. Xem và tải: Đề thi ngữ văn 11 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay