Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 chân trời sáng tạo Bài 5: Văn bản. Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 5: Văn bản. Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo
Xem: => Giáo án ngữ văn 10 chân trời sáng tạo (bản word)
VĂN BẢN. HUYỆN TRÌA, ĐỀ HẦU, THẦY NGHÊU MẮC LỠM THỊ HẾN
( 15 câu)
1. NHẬN BIẾT ( 5 câu)
Câu 1: Dựa vào phần đọc và tìm hiểu ở nhà, hãy giới thiệu về vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến và đoạn trích Huyện Trìa, đề Hầu, thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến
Trả lời:
1. Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến
- Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói hư tật xấu trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa.
- Đây là tác phẩm tiêu biểu trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất.
- Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Ký chỉnh lý (1957) gồm có tất cả ba hồi.
2. Đoạn trích Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghiêu mắc lỡm thị Hến
Nội dung: Thị Hến đã hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đề Hầu cùng đến. Thị Hến dùng mưu dụ cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.
Câu 2: Văn bản thuộc thể loại gì? Em hãy trình bày hiểu biết của mình về thể loại đó.
Trả lời:
- Văn bản “Huyện Trìa, đề Hầu, thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến” thuộc thể loại tuồng đồ
- Là loại tuồng hài (tuồng gây cười), được xây dựng trên cảm hứng hài kịch, thiên về châm biếm, đả kích, không bị ràng buộc vào những điển luật nghiêm ngặt như tuồng thầy.
Câu 3: Em hãy trình bày bố cục văn bản và nêu nội dung chính từng phần
Trả lời:
Bố cục: 2 phần
- Phần 1: Từ đầu đến bày thiệt nào: giới thiệu nhân vật Huyện Trìa và tính cách của hắn.
- Phần 2: Còn lại: Cuộc xử án của Huyện Trìa với mâu thuẫn giữa Thị Hến và Trùm Sò.
Câu 4: Em hãy tổng kết giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của văn bản.
Trả lời:
- a. Nội dung:
- b. Nghệ thuật
Câu 5: Em hãy tóm tắt nội dung chính của văn bản “Huyện Trìa, đề Hầu, thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến” bằng một đoạn văn ngắn.
Trả lời:
Văn bản "Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến" trích từ tác phẩm "Nghêu, Sò, Ốc, Hến". Đoạn trích xoay quanh việc Thị Hến bày kế làm Nghêu, Huyện Trìa, Đề Hầu bẽ mặt. Quuan huyện và thầy Đề u mê trước vẻ đẹp của nàng nên đã tha bổng cho Thị Hến khi nàng bị kiện. Nghêu là một thầy tu phá giới, sa đọa cũng có ý với Hến. Thị Hến bày mưu cho mời cả ba đến nhà vào một buổi tối và tại đây đã diễn ra một cuộc hội ngộ đầy bẽ bàng và nhục nhã.
2. THÔNG HIỂU ( 6 câu)
Câu 1: Xác định bối cảnh (không gian, thời gian) và nhận vật tham gia câu chuyện trong đoạn trích Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến
Trả lời:
- Thời gian: Buổi tối, trời tối tăm
- Không gian: ở nhà Thị Hến
- Hoàn cảnh câu chuyện: Nghêu đến gõ cửa vào nhà Thị Hến và bày tỏ niềm mến ngộ đã lâu. Trong lúc cả hai đang mặn nồng thì Đề Hầu đến, Thị Hến liền bảo Nghêu chui xuống phản để trốn trước. Đề Hầu vào, Thị Hến dùng lời lẽ ngon ngọt thể hiện tình cảm sâu đậm và sau đó hỏi về chuyện tu phá giới. Đang lúc đó, Huyện Trìa xuất hiện, Đề Hầu nhanh chóng tìm chỗ trốn. Huyện Trìa vào, bày tỏ tình cảm của mình với Thị Hến, cùng lúc đó Nghêu chui ra và Đề Hầu cũng bò ra. Ba người nhìn nhau vừa giận, vừa xấu hổ mà bỏ về.
Câu 2: Phân tích một số yếu tố tạo ra tiếng cười trong đoạn trích: tình huống kịch.
Trả lời:
- Tình huống tạo ra tiếng cười trong đoạn trích: bất ngờ, giàu kịch tính, khiến các đối tượng đáng cười tự “vạch áo cho người xem lưng”.
- Tiếng cười trong đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động của các nhân vật
- Ngôn ngữ đậm sắc thái trào phúng trong lời nói của các nhân vật.
à Ngôn ngữ và hành động đã giúp người đọc hình dung ra hình ảnh, bộ điệu của các nhân vật, cho thấy nỗi sợ hãi, cuống quýt, tức cười khi việc làm xấu bị “lột mặt nạ", tạo ra sự đối lập giữa tình thế trước và sau khi bị phát giác.
Câu 3: Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số chỉ dẫn sân khấu có trong văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến
Trả lời:
- Các chỉ dẫn sân khấu đều được để trong ngoặc đơn của văn bản tuồng:
- Các chỉ dẫn sân khấu in nghiêng, được trình bày trước lời thoại của nhân vật à người đọc biết diễn biến của các sự việc, chi tiết trong văn bản tuồng, giúp hình dung ra bối cảnh, sự xuất hiện của các nhân vật, hành động của nhân vật trên sân khấu tuồng.
- Các chỉ dẫn được đưa vào ngoặc đơn, không in nghiêng, trong lời của nhân vật à Người đọc biết đó là những tiếng đưa đẩy, tiếng đế thêm của nhân vật, dùng để lưu ý diễn viên lên giọng hoặc xuống giọng khi diễn. Do đó, giúp người đọc hình dung rõ hơn giọng điệu, cử chỉ, nét mặt… của nhân vật trên sân khấu.
Câu 4: Trong văn bản, tác giả dân gian đã thể hiện thái độ như thế nào đối với các nhân vật
Trả lời:
- Tác giả dân gian đã thể hiện thái độ đồng tình với nhân vật Thị Hến, phê phán thói “tham của lạ" của Nghêu, Đề Hầu, Huyện Tria.
à Nhận xét:
- Thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ.
- Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến
Câu 5: Em ấn tượng nhất với chi tiết, hình ảnh nào trong đoạn trích? Vì sao?
Trả lời:
Em ấn tượng nhất với chi tiết cuối cùng của Thị Hến sau khi Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa tức giận rời khỏi nhà Thị Hến. Bởi vì hình ảnh này cho ta thấy được trí tuệ của người phụ nữ đầy sắc sảo, thông minh.
Câu 6: Tiếng cười ở đoạn trích Huyện Trìa, đề Hầu, thầy Nghiêu mắc lỡm Thị Hến còn có ý nghĩa gì với cuộc sống hôm nay không? Vì sao?
Trả lời:
- Tiếng cười ở đoạn trích Mắc mưu Thị Hến rất có ý nghĩa đối với cuộc sống ngày hôm nay.
- Bời vì đây là vở tuồng hài dân gian, tiếng cười trong vở tuồng này có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ giúp ta sảng khoái tinh thần sau cả ngày làm việc mệt nhọc, mà nó còn là những bài học thâm thúy để ta đáng suy ngẫm rất nhiều. Xem tuồng ta thấy như cả bầu trời tuổi thơ ùa về, không gian bối cảnh mang đậm nét thôn quê Bắc Bộ, có thể xã hội hiện đại phát triển nhiều thứ mới cao cấp hơn ra đời nhưng chỉ có tiếng cười trong tuồng không khiến ta nhàm chán, không khiến ta mất đi sự náo nức ngóng từng giai đoạn bởi trong đó tuồng vẫn giữ được yếu tố truyền thống hấp dẫn.
3. VẬN DỤNG ( 3 câu)
Câu 1: Hãy kể tên một số tác phẩm lấy cảm hứng từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến.
Trả lời:
Tác phẩm "Thầy Khóa làng tôi".
Câu 2: Nêu đặc điểm lời thoại của nhân vật trên sân khấu qua toàn bộ những câu đối đáp trong cảnh tuồng. Theo em, vì sao lời thoại trên sân khấu lại có đặc điểm như vậy?
Trả lời:
Theo dõi toàn bộ những câu đối đáp trong cảnh tuồng, có thể nhận ra đặc điểm của lời thoại không chỉ trong nghệ thuật tuồng mà còn trong cả nghệ thuật sân khấu nói chung. Đó là:
- Lời thoại phải phản ánh rõ nét tính cách nhân vật (thậm chí, trong tuồng, chèo, lời xưng danh của nhân vật còn mang tính chất đúc kết về bản chất của chính người nói, chẳng khác gì một lời nhận xét khách quan của người đứng bên ngoài).
- Lời thoại phải thể hiện được hành động và thúc đẩy hành động (trong cảnh tuồng Huyện đường, lời thoại nào cũng tiết lộ cho biết việc nhân vật đang làm hoặc sắp làm).
- Lời thoại hàm chứa những thông tin về bối cảnh của sự việc đang xảy ra (khi tri huyện phàn nàn: “A, thầy Đề này, hôm nay sao mà [...] Nha lại vắng bẩm thân/ Dân xã không đấu cáo”, lập tức người đọc hình dung ra cảnh vắng vẻ nơi huyện đường - một tình trạng mà cả tri huyện lẫn đề lại đều không mong muốn, vì như vậy là cả hai mất cơ hội kiếm chác).
- Lời thoại vừa hướng về nhân vật cùng đối thoại trong câu chuyện, vừa hướng đến khán giả, giúp khán giả nhanh chóng nhận ra thực chất của con người, sự việc đang hiện diện hay đang diễn ra trên sân khấu (lời xưng danh của tri huyện thể hiện rất rõ tính chất này).
Câu 3: Em hãy tìm hiểu và so sánh sự giống và khác nhau giữa tuồng và chèo? Kể thêm một số tác phẩm tuồng, chèo mà em biết.
Trả lời:
- Điểm giống nhau:
+ Đề tài: chèo cổ và tuồng đồ thường lấy cảm hứng từ cuộc sống và phản ánh những thói đời trong xã hội xưa.
+ Nhân vật: mang tính ước lệ.
+ Lời thoại: có đối thoại, độc thoại, bàng thoại.
- Điểm khác nhau:
Chèo cổ | Tuồng cổ | |
Đề tài | Xoay quanh vấn đề giáo dục, ứng xử giữa người với người, thường theo triết lí dân gian hoặc tư tưởng Nho giáo. | - Lấy từ truyện cổ dân gian hoặc tích truyện có sẵn. - Nhằm phê phán thói xấu của xã hội phong kiến, của thế lực ở những bọn quan lại. |
Nhân vật | Nhân vật thường không đi kèm với lời danh xưng. | - Nhân vật chính xuất hiện với lời xưng danh. - Lời thoại của nhân vật luôn có ý mỉa mai, châm biếm nhau và gây cười. |
4. VẬN DỤNG CAO ( 1 câu)
Câu 1: Phân tích tác phẩm Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến
Trả lời:
Trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam, tuồng đồ là một loại hình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc. Mặc dù ra đời đã lâu nhưng vở tuồng "Nghêu, Sò, Ốc, Hến" cho đến nay vẫn giữ được vị trí quan trọng trong lòng khán giả Việt Nam. Thuộc lớp XIX, cũng là lớp cuối cùng của tác phẩm, đoạn trích "Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến" đã phơi bày những thói hư tật xấu của một số hạng người trong xã hội xưa.
Trích đoạn "Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến" xoay quanh việc Sư Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa đến nhà Thị Hến vào ban đêm để tư tình với thị. Lợi dụng thói háo sắc, Thị Hến tính cách để ba tên chạm mặt, chấm dứt mọi sự quấy nhiễu, phiền hà.
Ngay từ ban đầu, qua lời nói của Thị Hến, ta có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện và tình huống sắp diễn ra. Sư Nghêu là tên sãi trọc phá giới. Vì quá khó chịu, bực tức với Huyện Trìa, Sư Nghêu, Đề Hầu, Thị Hến suy nghĩ về việc chơi ba người một vố thật đau nhằm "giữ tiết hạnh một đường cho toại".
Trời đã về đêm, đường sá nhá nhem, tên Sư Nghêu vẫn lần mò đến nhà Thị Hến. Đến cửa thì gọi với vào trong "Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!". Thị Hến đon đả, mời nước tìm cách trì hoãn. Thầy Nghêu đam mê sắc dục, đi ngược lại đạo đức, phẩm hạnh của kẻ tu hành nên quyết "Kệ kinh chuông mõ trả cho cho chùa", khuyên lơn Thị Hến không nên phụ tấm lòng của hắn mà giao duyên kết đôi. Tà dâm, háo sắc là điều cấm kị đối với người tu hành. Vậy mà thầy Nghêu lại bất chấp lí lẽ, phá giới để đi theo quả phụ. Vừa mới nói dứt câu thì có tiếng Đề Hầu kêu cửa, thầy Nghêu lộ bộ mặt hèn nhát. Sợ mọi việc bị bại lộ, hắn bảo Thị Hến chỉ cho mình chỗ trốn. Thị Hến cũng chẳng ngần ngại chỉ "Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó", rồi hứa hẹn "Người về đã, sẽ vầy hai mặt". Ngay lập tức, hắn chui xuống gầm phản.
Tên Đề Hầu vừa vào nhà, hắn liền buông lời trách móc:
"Ơn mỗ cứu cho bữa trước
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)"