Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 chân trời sáng tạo Bài 7: Văn bản. Thư lại dụ Vương Thông

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 7: Văn bản. Thư lại dụ Vương Thông. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

Xem: => Giáo án ngữ văn 10 chân trời sáng tạo (bản word)

VĂN BẢN. THƯ LẠI DỤ VƯƠNG THÔNG

( 16 câu)

1.    NHẬN BIẾT ( 4 câu)

Câu 1: Em hãy trình bày hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm “Thư lại dụ Vương Thông”

Trả lời:

Từ tháng 9 năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc. Nhà Minh phái Thành Sơn Hầu Vương Thông đem năm vạn quân sang cứu viện. Phương Chính, Lí An giao thành Nghệ An cho Thái Phúc dẫn quân ra giữ Đông Quan. Vương Thông mở đợt phản công quân ta nhưng bị thất bại, nên cũng kéo quân về cố thủ ở Đông Quan, số quân ở đây lên tới mười vạn. Thành Đông Quan lúc này bị quân ta vây chặt.  Bộ chỉ huy quân ta đóng ở Tây Phù Liệt ( Thanh Trì), nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Vương Thông cùng Sơn Thọ viết thư cho Lê Lợi xin giảng hòa nhưng mục đích là chờ quân tiếp viện. Trước đó, Nguyễn Trãi đã có thư chiêu dụ Vương Thông nhưng y vẫn ngoan cố. Đây là thư dụ hàng thứ mười ba gửi cho Vương Thông tiếp theo Nguyễn Trãi còn gửi bốn thư nữa cho đến khi viện binh Liễu Thăng bị đánh bại thì việc mới thành

Câu 2: Em hãy trình bày bố cục của văn bản. Nêu nội dung chính từng phần

Trả lời:

Bố cục tác phẩm gồm có 3 phần chính là:

+ Phần 1: Từ đầu đến “Sao đủ để cùng nói việc binh được” : nếu cao tư tưởng dùng binh tầm quan trọng của “thời” và “thế”

+ Phần 2: “Trước đây các ông” đến “bại vong có sáu”: Phân tích tình hình trước đây và hiện tại đặc biệt có 6 nguyên nhân dẫn tới bại vong tất yếu của quân giặc.

+ Phần 3:  Còn lại: Khuyên giặc ra hàng

Câu 3: Trình bày giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

Trả lời:

  • a. Nội dung
  • b. Nghệ thuật

Câu 4: Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Thư lại dụ Vương Thông?

Trả lời:

Văn bản "Thư dụ Vương Thông lần nữa" hay còn có tên là "Tái dụ Vương Thông thư" do Nguyễn Trãi viết. Đây là một trong những bức thư gửi cho Vương Thông. Sau khi Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông không đợi lệnh vua Minh đã "tự ý giảng hoà" với quân Lam Sơn rồi rút quân về nước. Bức thư đã phân tích tình hình khó khăn của nhà Minh, vạch rõ nguy cơ bại vong của quân giặc nếu vẫn ngoan cỗ giữ thành chờ viện binh. Qua bức thư, tác giả đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt. Nêu lên nguyên lí của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế, phân tích thời và thế của đối phương ở thành Đông Quan và khuyên hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp, thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.

2.    THÔNG HIỂU ( 5 câu)

Câu 1: Luận về tư tưởng dùng binh Nguyễn Trãi đã đưa ra quan điểm và lập luận, bằng chứng, lí lẽ ra sao?

Trả lời:

- Mở đầu bức thư bằng tư tưởng dùng binh. Một trong những tư tưởng quan trọng của binh pháp đó chính là hiểu biết “thời” và “thế”. Cụ thể tác giả viết “Được thời và thế thì biến mất thành còn, hoá nhỏ thành lớn; mất thời không thế thì hoá mạnh ra yếu, yên lại thành nguy”.

- Luận điểm chính được nhăc đến ở phần này là “ Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi” -> răn giặc biết rõ thời thế tiến lùi mới được xem là người dùng binh giỏi.

- Hệ thống lí lẽ chặt chẽ: : “Được thời có thế thì mất biến thành con, nhỏ hóa ra lớn, mất thời thất thế, thì mạnh hóa yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi”

-> Khi có thời thế hay hành động hợp thời thế thì dù gian khó cũng sẽ đi đến thành công. Khi không ó thời thế lại thành động không hợp thời thế thì dù đang hùng mạnh cũng sẽ đi đến thất bại. Sự thay đổi này sẽ diễn ra rất  nhanh người dùng binh nên biết điều này.

- Bằng chứng xác thực “Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?”

-> Tướng giặc không hiểu biết thời thế lại dùng lời lẽ ngụy biện để tự dối mình, dối người, đầy là bằng chứng của sự kém cỏi, không đáng mặt cầm quân và khó để thành công.

Câu 2: Tác giả đã phân tích tình hình “trước đây” và “hiện tại” của giặc Minh ra sao?

Trả lời:

-       Nguyễn Trãi phân tích tình thế “trước” và “hiện nay” của giặc: “Xưa kia Tần thôn tính sáu nước, chế ngự bốn phương, mà đức chính không sửa, nên thân mất nước tan”. “Nay Ngô mạnh không bằng Tần mà hà khắc lại quá không đầy mấy năm nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy”, “huống hồ con cháu vua Trần, mệnh trời đã cho, lòng người đã theo, thì Ngô làm sao có thể cướp được”.

ð Tác giả đưa ra những lí lẽ xác đáng bằng chứng từ thực tế lịch sử như một lời cảnh tỉnh cho giặc tất sẽ thất bại

Câu 3: Theo em, việc tác giả sử dụng “mệnh trời” ở ngữ cảnh này có tác dụng gì?

Trả lời:

Việc sử dụng là vô cùng cần thiết trong bức thư này vì Triều đình phương Bắc luôn cho mình là “thiên triều” tướng giặc Minh theo lệnh “thiên tử” thi hành “thiên mệnh” đem quân sang nước ta để giúp “phù Trần diệt Hồ”. Bọn giặc làm gì cũng nhân danh “mệnh trời” nhưng thực ra đó là ngôn ngữ xảo trá, lừa bịp để cướp nước ta. Do đó, tác giả đã dùng cách “gậy ông đập lưng ông” vạch rõ sự chính sanh và giả danh kèm theo chứng cớ thực tế khiến đối phương không thể biện bạch được.

Câu 4: Sáu nguyên nhân thất bại của giặc gồm những nguyên nhân nào? Lí do vì sao đã tạo nên sự đanh thép, quyết đoán của tác giả?

Trả lời:

-       Như một lẽ tất yếu khi phân tích tình hình của giặc tác giả đã chỉ ra 6 nguyên nhân chính dẫn đến thảm bại của giặc:

+ Thứ nhất là lũ  lụt làm giặc hư hại về cơ sở vật chất, tổn thất quân lương.

+ Thứ hai,  đường sá, cửa ải đều bị nghĩa quân Đại Việt đóng giữ, không viện binh nào của giặc tới cứu được.

+ Thứ ba,  quân mạnh ngựa khỏe của nhà Minh phải dành để đối phó quân Nguyễn phía Bắc nên phía Nam không lo được.

+ Thứ tư, phát động chiến tranh liên tiếp nhiều năm làm dân nhà Minh khổ sở, bất mãn.

+ Thứ năm, trong triều đình nhà Minh thì bạo chúa, gian thần nắm quyền nội bộ xâu xé nhau.

+ Thứ sáu, Nghĩa quân Đại Việt đồng lòng quyết chiến, hăng hái tinh nhuệ, khí giới, lương thực đầy đủ, quân giặc bị vây trong thành thì mệt mỏi nản lòng.

ð ở phần này, tác giả phân tích rõ ràng, xác đáng kèm theo dẫn chứng từ những thực tế tước mắt không thể phủ nhận. Các nguyên nhân cũng được sắp xếp theo một trình tự hợp lí, đi từ thực tế khó khăn về thiên thời, địa lợi cho đến nhân hòa.  Điều này cho thấy giặc hoàn toàn không có cả “thời” lẫn “thế”.

Ngoài ra còn có cách diễn đạt nêu nguyên nhân bằng những lí lẽ phân tích và dẫn chứng ra trước rồi mới kết lại bằng một câu rắn rỏi: “Đó là điều phải thua thứ…” khiến câu văn như lời phán quyết đanh thép, chắc nịch, quyết đoán không ai có thể phủ định

Câu 5: Phân tích một số từ ngữ, hình ảnh trong bức thư để làm nổi bật tư thế, niềm tin, ý chí và tinh thần yêu chuộng hoà bình của cha ông ta trước kẻ thù xâm lược.

Trả lời:

Niềm tin tất thắng của tác giả vào công cuộc chống quân Minh thể hiện ở chỗ hiểu rõ sự thất bại tất yếu của địch. Lòng yêu chuộng hoà bình thể hiện ở thiện chí đối với quân Minh, không chủ trương tiêu diệt mà tạo điều kiện cho chúng rút quân. Đọc kĩ đoạn kết để thấy rõ: người viết thư hứa hẹn với quân Minh là nếu chúng muốn rút quân thì ta sẽ sửa sang đường sá, cung cấp phương tiện, đảm bảo tính mệnh, giữ quan hệ triều cống, xưng thần như cũ. Chú ý là tác giả hiểu rõ quan hệ đặc biệt giữa ta với Trung Quốc, không chủ trương gây thù, chuốc oán, mà muốn giữ quan hệ láng giềng thân thiện, lâu dài. Phần kết bức thư đã thể hiện rõ tư tưởng chiến lược ấy, một tư tưởng sáng suốt, có tầm chiến lược sâu sắc, có ý nghĩa lâu dài.

3.    VẬN DỤNG ( 6 câu)

Câu 1: Em hãy phân tích ngôn ngữ và giọng điệu của tác giả trong văn bản "Thư lại dụ Vương Thông"?

Trả lời:

  • Ngôn ngữ đanh thép, cô đúc.
  • Giọng văn mạnh mẽ, dứt khoát; dẫn ra các lí lẽ, bằng chứng xác đáng đã tạo nên tính chất đanh thép, quyết đoán trong phần này.

Câu 2: Cách lập luận của tác giả trong văn bản có gì đặc biệt? Điều gì làm nên sức thuyết phục của bức thư?

Trả lời:

  • Lôgic giữa các đoạn thể hiện mạch lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của quân dân Đại Việt.
  • Văn bản có hệ thống lí lẽ, dẫn chứng minh bạch, rõ ràng, xác thực. Điều này làm nên sức thuyết phục của bức thư.

Câu 3: Theo em, tác giả có đạt được mục đích của mình không? Những cơ sở nào giúp em khẳng định điều đó?

Trả lời:

Theo em, tác giả có đạt được mục đích của mình. Bởi lẽ Nguyễn Trãi là một ngòi bút chính luận lỗi lạc. Các bức thư địch vận của ông có sức mạnh như một đạo quân hùng hậu hoặc như một vũ khí sắc bén. Bài Thư dự Vương Thông lần nữa thể hiện tác giả là tài năng nghị luận bậc thầy trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể coi văn bản trên là một đòn đánh mạnh vào âm mưu cố thủ, chờ viện binh sang để phản công quân ta của đám tướng lĩnh nhà Minh.

Câu 4: Trong Thư dụ Vương Thông lần nữa có đoạn viết: “Trước, Phương Chính, Mã Kỳ chuyên làm điều hà khắc, bạo ngược, dân chúng lầm than, thiên hạ oán thán. Đào phần mộ làng ấp ta, bắt vợ con của dân ta, người sống bị hại, người chết ngậm oan. Nếu các ông biết xét kĩ sự thế, nhận rõ thời cơ, chém lấy đầu Phương Chính, Mã Kỳ đem nộp trước cửa quân, thì sẽ tránh cho người trong thành khỏi bị giết, hàn gắn vết thương trong nước, hoà hảo lại thông, can qua dứt hẳn.” Em hãy nêu mục đích của đoạn thư trên

Trả lời:

Những câu văn đó thể hiện ý chí và quyết tâm của quân dân Đại Việt trong việc tiêu diệt quân Minh nếu chúng không chịu giảng hoà và rút quân về nước.

Câu 5: Phân tích nghệ thuật lập luận được Nguyễn Trãi thể hiện trong bức thư (từ quan niệm thời thế, chỉ rõ âm mưu và tình thế của đối phương, vạch ra các nguyên nhân dẫn đến thất bại của chúng đến việc đưa ra giải pháp kết thúc chiến tranh) để làm rõ chiến lược “mưu phạt, tâm công” của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược

Trả lời:

Nghệ thuật lập luận trong bức thư của Nguyễn Trãi được thể hiện qua trình tự sau:

+ Nêu quan niệm về thời thế (tiền đề để triển khai lập luận).

+ Chỉ rõ âm mưu và tình thế của quân Minh.

+ Vạch ra các nguyên nhân dẫn đến thất bại tất yếu của chúng.

+ Đưa ra giải pháp tốt nhất để kết thúc chiến tranh,...

- Đây là bức thư kêu gọi giặc Minh đầu hàng nên Nguyễn Trãi đã hết sức chú trọng đến nghệ thuật hùng biện nhằm thuyết phục kẻ thù, đánh vào tâm lí đang hoảng loạn, lo sợ của chúng trong tình thế lương thực ngày một cạn kiệt, quân tiếp viện không biết đến bao giờ mới đến.

- “Mưu phạt, tâm công” là dùng mưu lược để đập tan mọi âm mưu, quỷ kế của địch và đánh vào tâm lí, dùng lí lẽ nhân nghĩa để làm tan rã tư tưởng, tinh thần đối phương. Đây là tư tưởng xuyên suốt cuộc kháng chiến, ít nhiều đã được nói đến trong bài Đại cáo bình Ngô ở trên. Ở đây, bức thư nổi bật với lập luận lô gích và lí lẽ có sức lay chuyển lòng người.

Câu 6: Bức thư giúp em hiểu biết thêm điều gì về tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi?

Trả lời:

Nguyễn Trãi là nhà viết văn chính luận lỗi lạc. Các bức thư địch vận của ông có sức mạnh như một vũ khí sắc bén. Bài Thư dụ Vương Thông lần nữa là một đòn đánh mạnh vào âm mưu giữ quân trong thành, chờ viện binh sang để phản công quân ta của tướng lĩnh và binh lính nhà Minh. Bức thư đã vạch rõ thời và thế của địch, chỉ ra sáu cớ bại vọng và kêu gọi chúng đầu hàng, rút quân về nước, khôi phục lại quan hệ bình thường của hai nước. Bức thư thể hiện một tài nghệ nghị luận bậc thầy trong lịch sử văn học dân tộc. Bức thư còn cho thấy tư tưởng yêu nước, quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang với phương châm vì dân, vì nước. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, tư tưởng, quân sự, văn hoá, văn học thiên tài mà còn là nhà ngoại giao, nhà chiến lược và nhà tâm lí xuất sắc, “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, thực hiện tư tưởng chiến lược Nguyễn Trãi “mưu phạt tâm công” trên lợi ích của đất nước, nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, giảm thiểu xương máu của cả hai dân tộc Việt - Trung.

4.    VẬN DỤNG CAO ( 1 câu)

Câu 1: Phân tích tác phẩm Thư lại dụ Vương Thông

Trả lời:

Trong sự nghiệp phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh cướp nước, nhiều lần mưu sĩ Nguyễn Trãi đã soạn thảo thư từ gửi cho các tướng giặc để mắng nhiếc, khiêu khích hoặc dụ hàng, nhằm thực hiện chiến lược “mưu phạt tâm công”. Học giả Bùi Huy Bích đã nhận xét rất chính xác: “Các bức thư này có sức mạnh của mười vạn quân”.

Thư dụ Vương Thông lần nữa là bức thư số 35, có nội dung và nghệ thuật hay nhất, sau này được in trong Quân trung từ mệnh tập. Bằng cách thuyết phục này, Nguyễn Trãi đã đạt được mục đích: Ta không đánh mà giặc cũng tan.

Lúc bấy giờ, quân giặc trong thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay) bị nghĩa quân Lam Sơn vây hãm, đang lâm vào tình cảnh khốn đốn. Nguyễn Trãi viết bức thư này vào khoảng tháng 2-1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi tướng giặc Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông sợ hãi, không đợi lệnh vua Minh đã tự ý rút quân về nước.

Với lập luận chặt chẽ, sắc bén, qua Thư dụ Vương Thông lần nữa, Nguyễn Trãi đã thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hòa bình của quân dân Đại Việt.

Bố cục bức thư gồm ba đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu đến… Sao đủ để cùng nói việc binh được?: Tác giả nêu lên nguyên tắc của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế.

Đoạn 2: Từ Trước đây các ông… đến… bại vong đó là sáu: Nguyễn Trãi phân tích thời và thế bất lợi của đối phương.

Đoạn 3: Phần còn lại: Tác giả khuyên các tướng giặc đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp. Đồng thời thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.

Muốn hiểu rõ nội dung bức thư, việc đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hai từ thời và thế.

Thời là khoảng thời gian nhất định. Thế là tổng thể các mối quan hệ tạo thành điều kiện chung có lợi hoặc không có lợi cho một hoạt động nào đó của con người. Không chỉ riêng các nhà quân sự mà những người làm kinh tế hoặc ngoại giao cũng phải hiểu thời và thế thì mới đạt được kết quả tốt trong công việc.

Thời thế trong một cuộc chiến là hoàn cảnh chung, là vị trí, vai trò của trận đánh, là sự tương quan lực lượng giữa hai bên… Trên cơ sở đó, các tướng lĩnh sẽ đưa ra cách đánh hợp lí nhất để đạt mục đích của từng trận đánh nói riêng và của cả chiến dịch nói chung.

Mở đầu bức thư, tác giả chỉ cho tướng giặc biết thuật dùng binh:

Người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn; mất thời và không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại che đậy bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu đớn hèn ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được?

Đây là đoạn văn có vai trò nêu chủ đề, mở ra hướng lập luận cho toàn bài. Ở các đoạn sau, tác giả nêu ra những luận điểm, luận chứng hết sức chặt chẽ và chính xác để làm nổi bật chủ đề.

Chủ đề bức thư là bàn về việc binh, mà điều quan trọng là người dùng binh muốn chiến thắng thì phải biết thời thế. Nguyễn Trãi khẳng định đây là, nguyên lý cơ bản có giá trị như một chân lý. Tác giả phân tích thời thế bất lợi của đối phương nhằm mục đích thuyết phục, dụ hàng, đồng thời nhận xét rằng tướng giặc không những không hiểu thời thế mà còn dối trá, che đậy nguy cơ thất bại đối với binh lính dưới quyền.

Ở đoạn 2 của bức thư, tác giả chỉ ra ba ý: Ý thứ nhất nói đến cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc (hậu phương); ý thứ hai nói đến cái thế của quân Minh ở thành Đông Quan; ý thứ ba chỉ ra sáu nguyên nhân bại vong của giặc.

Cái thế của nhà Minh ở Trung Quốc có ba điều bất lợi: Chính sách hà khấc tất dẫn đến diệt vong. Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên đe dọa. Trong nước có nội loạn ở Tầm Châu.

Nguyễn Trãi đã nêu lên một loạt dẫn chứng trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời liên hệ đến tình hình nội bộ rối ren của Trung Quốc hiện thời:

Ngày xưa nhà Tần thôn tính sáu nước, chuyên chế bốn bể, không chăm lo đức chính, thân mất nước tan. Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất sẽ theo nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy. Hiện nay phía bắc có kẻ địch Thiên Nguyên, phía nam có mối lo nội loạn ở các xứ Tầm Châu, một khu Giang Tả không tự giữ được, huống còn mưu toan đi cướp nước khác ư? Các ông không hiểu sự thế, bị người đánh bại, lại còn chực dựa uy Trương Phụ, thế có phải là đại trượng phu chăng, hay chỉ là đàn bà thôi?

Tình thế ngày nay, dù có vị ngôi cao đem quân đến nữa, cũng chỉ càng mau chết mà thôi, huống chi Trương Phụ chỉ là đến nộp mạng, thì có gì đáng nói.

Cái thế của quân Minh ở thành Đông Quan cũng có ba điều bất lợi: Thành bị vây, không viện binh, không lương thực. Dân chúng trong thành căm ghét tìm mọi cách chống lại. Quân lính thì oán trách, bất bình:

"Nay các ông kế cùng lực kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không vận binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghĩa tạm thành chơ vơ, há chẳng như là thịt trên thớt, cá trong nổi rồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dù thời cùng vận khốn cũng nếm mật nằm gai, không chịu đem lòng kia khác; lẽ nào ngày nay lại chịu tin theo những lời bất nghĩa của các ông. Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chúa cũ, người Ngô ở đây khốn khổ không kham thì những người chống các ông sẽ kéo nhau ra hàng; như Trương Phi, Lữ Bố, các ông lại bị chính thuộc hạ giết hại, đó là lẽ tất nhiên."

Trong những khó khăn chủ quan về phía giặc, thì nguyên nhân để mất lòng tin là nguyên nhân cốt yếu, chi phối toàn bộ chiến lược của chúng. Đúng là như vậy! Thành trì bị quân ta vây chặt, gặp nạn lụt lội, lương thực cho người, cỏ rơm cho lừa, ngựa đã cạn, mà viện binh vẫn tuyệt tăm hơi. Đó là điều thất bại trông thấy trước mắt. Đúng là quân Minh rơi vào cái thế hoàn toàn bị động của “cá trên thớt, thịt trong nồi”:

Nay ở các thành, từ đô ti trở xuống, đều căm giận các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ vượt lũy trốn ra, tố cáo cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải đợi quân sĩ của ta nữa.

Trên cơ sở phân tích sự chuyển biến của thời và thế cùng mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, Nguyễn Trãi đã vạch rõ cho lũ tướng giặc thấy sáu cái cớ bại vong:

"Nguyên nhân thứ nhất là những khó khăn chồng chất mà chúng đang gặp phải, không thể vượt qua.

Nguyên nhân thứ hai là không có viện binh đến cứu, giặc Minh ở Đông Quan rơi vào tình cảnh “nước xa không cứu được lửa gần”.

Nguyên nhân thứ ba là triều đình nhà Minh đang phải lo đối phó với quân Nguyên, không rỗi mà quan tâm đến tình cảnh bi đát của đám tướng sĩ xâm lược ở nước Nam.

Nguyên nhân thứ tư là nội chiến xảy ra liên miên khiến cho dân chúng sống dưới triều đại nhà Minh không được yên ổn, đâm ra chán nản và thất vọng.

Nguyên nhân thứ năm là ở triều đình nhà Minh, bọn gian thần chuyên chính, nội bộ lục đục tranh giành quyền lực, gây ra cảnh nồi da xáo thịt.

Nguyên nhân thứ sáu là lực lượng nghĩa quân Lam Sơn càng ngày càng mạnh mẽ, trong khi quân Minh ngày càng mỏi mệt, nhụt chí chiến đấu."

Nắm rất chắc lẽ biến dịch “cùng tắc biến, biến tắc thông”, Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho bọn tướng giặc biết là cái thế “cùng” của chúng không thể kéo dài mà tất sẽ bung ra, trước hết là từ ngay trong lòng của nó. Hay nói cách khác, tự quân lính dưới quyền của chúng sẽ quay mũi giáo chống lại chúng để tìm đường giải thoát, vì nếu không thì sẽ chết thảm. Nguyễn Trãi nêu lên từng luận điểm cụ thể với lí lẽ và dẫn chứng thật chặt chẽ, chính xác:

"Nay ta suy tính hộ các ông thì cái cớ bại vong có sáu!

Nước lụt mênh mông, tường rào đổ vỡ, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm; bại vong đó là một!

Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung phải ra hàng; nay bao nhiêu cửa quan hiểm trở đều có binh tướng đồn đóng, viện binh nếu đến, tất nhiên bị bại, viện binh đã bại, các ông còn trốn đằng trời; bại vong đó là hai!

Nước các ông binh khỏe ngựa béo, nay còn để cả miền bắc để phòng thủ quân Nguyên, không rỗi đâu nhìn sang nước Nam được; bại vong đó là ba!

Can qua liên miên, phinh phạt không nghị người chẳng sống yên, nhao nhao thất vọng; bại vong đó là bốn!

Gian thần chuyên chính, chúa yếu trị vì, xương thịt hại nhau, “gia đình sinh biến”; bại vong đó là năm!

Nay ta dấy nghĩa quân, trên dưới đồng lòng, anh hùng tận lực, quân lính càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc, trong thành quân sĩ mỏi mệt, tự chuốc diệt vong; bại vong đó là sáu!"

Đây là đoạn hấp dẫn nhất của bức thư mà nội dung xoáy sâu vào tình thế tiến thoái lưỡng nan của giặc. Dẫn chứng cụ thể, lời lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn của tác giả khiến vương Thông và lũ tướng giặc không thể coi thường, đọc đến đây ắt sợ toát mồ hôi.

Trong phần kết của bức thư, Nguyễn Trãi nêu ra hai khả năng cho quân Minh lựa chọn: một là đầu hàng, hai là mở cửa thành đem quân ra giao chiến với nghĩa quân Lam Sơn. Tác giả khuyên chúng nên đầu hàng là có lợi nhất:

"Ngồi giữ một mảnh thành con, để chờ sáu cái cớ bại vong ấy, thật tiếc thay cho các ông! cổ nhân có câu: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Dù có viện binh đến đây, cũng không ích gì cho sự bại vong cả. Trước đây Phương Chính, Mã Kỳ chỉ chuyên làm những sự hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ oán thán: nào đào mồ mả của làng ấp ta, nào bắt vợ con của dân ta, kẻ chết hàm oan; người sống bị khổ. Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kỳ đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hòa hiếu lại thông, can qua xếp bỏ."

Mặc dù ở tư thế của người nắm phần chủ động, hơn hẳn về sức mạnh quân sự cũng như thời thế, song thái độ của tác giả vẫn hết sức đúng mực. Tác giả có sự phân biệt rõ ràng trong cách đối xử với các tướng nhà Minh. Đối với bọn Phương Chính, Mã Kỳ tàn ác, ngoan cố thì cương quyết tiêu diệt; đối với Vương Thông, Sơn Thọ và các tướng khác thì kiên trì phân tích phải trái, lúc cương, lúc nhu rất linh hoạt, chủ yếu là để dụ chúng đầu hàng.

Bức thư cũng thể hiện và nhấn mạnh cái thế áp đảo của quân ta. Khi Nguyễn Trãi viết bức thư này, nghĩa quân Lam Sơn đang bao vây thành Đông Quan. Tác giả vừa sỉ nhục coi lũ tướng giặc là đám thất phu, không cùng bàn việc binh được, là hạng đàn bà, không phải đại trượng phu để làm cho chúng hổ thẹn; vừa dùng lí lẽ phân tích sáu cớ bại vong nhằm lung lạc ý chí của chúng; đồng thời thách thức giao chiến để chứng tỏ sức mạnh quân sự của ta.

Niềm tin tất thắng của tác giả vào công cuộc chống quân Minh thể hiện ở sự hiểu rõ thế thất bại tất yếu của địch. Tinh thần yêu chuộng hòa bình của Nguyễn Trãi thể hiện ở thiện chí không chủ trương tiêu diệt quân Minh khi chúng đã bại trận mà tạo điều kiện cho chúng rút quân:

"Nếu muốn rút quân về nước, ta sẽ sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn; quân ra khỏi cõi, muôn phần bảo đảm được yên ổn không lo ngại gì; nước ta lại phụng cống xưng thần, theo lệ như trước."

Tác giả hiểu rõ quan hệ đặc biệt giữa ta với Trung Quốc nên không muốn gây thù, chuốc oán mà muốn giữ quan hệ láng giềng thân thiện. Phần kết bức thư đã thể hiện rõ tư tưởng chiến lược sáng suốt, có ý nghĩa lâu dài của Nguyễn Trãi.

Cuối cùng là lời cảnh cáo có tính chất tối hậu thư cho vương Thông:

"Nếu không nghe lời ta như vậy, thì nên sắm quân dàn trận, ra giao chiến ở giữa đồng bằng để quyết một trận thư hùng, đặng xem cái tài hơn kém, không nên ngồi rũ một xó hang cùng, bắt chước cái lối đàn bà mà mang cái nhục khăn yếm như thế!"

Nguyễn Trãi là một ngòi bút chính luận lỗi lạc. Các bức thư địch vận của ông có sức mạnh như một vũ khí sắc bén. Bài Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện tác giả là tài năng nghị luận bậc thầy trong lịch sử văn học dân tộc. Có thể coi văn bản trên là một đòn đánh mạnh vào âm mưu cố thủ, chờ viện binh sang để phản công quân ta của đám tướng lĩnh nhà Minh.

Nguyễn Trãi đã lấy sự phân tích xác thực về thời thế, lấy chính tỉnh thần nhân đạo, yêu chuộng hòa bình để thuyết phục tướng giặc. Sức mạnh của sách lược “đánh vào lòng người” ở bức Thư dụ Vương Thông lần nữa thể hiện một trí tuệ sáng suốt, một tấm lòng nhân ái cao cả, yêu hòa bình chính nghĩa của quân dân Đại Việt.

=> Giáo án ngữ văn 10 chân trời tiết: Văn bản thư lại dụ vương thông

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 chân trời sáng tạo - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay