Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức bài 2: Tràng giang
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 2: Tràng giang . Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
BÀI 2: CẤU TỨ VÀ HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRỮ TÌNHVĂN BẢN 2: TRÀNG GIANG
(14 câu)
(14 câu)
1. NHẬN BIẾT (4 câu)
Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về bài thơ Tràng Giang (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- Tác giả: Huy Cận
- Thể loại: Thơ bảy chữ
- Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận trên nhiều phương diện. Cảm hứng sáng tác bài thơ được khơi dậy từ những buổi chiều tác giả tới ngắm cảnh mênh mang của sông Hồng ở vùng Chèm – Vẽ vào mùa thu năm 1939. Trong Suy nghĩ về nghệ thuật (1982), Huy Cận cho biết Tràng giang “lúc sơ khai lại muốn là một bài lục bát và tên nguyên thuỷ của nó là Chiều trên sông”.
- Nội dung: Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một “cái tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Huy Cận.
Trả lời:
- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, rồi vào Huế học đến hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh. Ông tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau: Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam,...
- Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Tác phẩm đáng chú ý nhất của Huy Cận trước Cách mạng là Lửa thiêng (tập thơ đầu tay, sáng tác khoảng 1937 – 1940); ngoài ra, ông còn một số tác phẩm khác như Kinh cầu tự (văn xuôi – 1942), Vũ trụ ca (thơ, sáng tác khoảng 1940 – 1942). Hơn mười năm sau Cách mạng, Huy Cận ít có thơ in. Nhưng từ năm 1958, ông sáng tác dồi dào và có nhiều đổi mới, tìm thấy sự hoà điệu giữa con người và xã hội, tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984), Ta về với biển (1997),...
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại và đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Câu 3: Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?
Trả lời:
- Đề từ tuy nằm ngoài văn bản của tác phẩm, nhưng tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài Tràng giang: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là một ví dụ tiêu biểu. Tuy chỉ bằng một câu thơ bảy chữ, nhưng đề từ này đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của toàn bộ tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng tức là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).
- Có thể nói, Tràng giang đã triển khai một cách tập trung cảm hứng nêu ở câu thơ đề từ.
Câu 4: Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.
Trả lời:
- Toàn bài thơ mang âm điệu trầm buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/3, đôi chỗ là 4/3 hoặc 2/5,...
- Đọc chậm và diễn cảm sẽ thấy nhịp thơ đó chất chứa nỗi buồn sầu mênh mang. Thanh điệu chủ yếu theo kiểu thất ngôn cổ điển.
- Với sự luân phiên BB / TT / TBB – TT / BB / BTT, nhưng lại có biến thái qua việc sử dụng nhiều từ láy, sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người.
2. THÔNG HIỂU (4 câu)
Câu 1: Hãy phân tích khổ thơ thứ nhất.
Trả lời:
- Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể, đó là một tứ thơ cổ điển:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
- Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải trường giang; mặc dù tràng giang và trường giang đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu; tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gọi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là ở nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).
- Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất trân trọng vốn thơ ca dân tộc và thích thơ Đường. Trong sáng tác của ông, người đọc dễ dàng cảm nhận được dấu ấn của Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng quý là chúng đã được Việt hoá, nói cho đúng hơn là đã được Huy Cận hoá một cách nhuần nhị.
- Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật như cách đối trong thơ cổ.
- Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Tuy vậy, Tràng giang vẫn có nét hiện đại, nói cụ thể hơn là sản phẩm của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Đúng thế, Tràng giang hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
- Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi vì trong đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô. Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
Câu 2: Hãy phân tích khổ thơ thứ hai.
Trả lời:
- Nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
- Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa, cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu cùng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn,... Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều đã vãn). Dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Chợ chiều khi xưa thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ họp buổi sáng. Ở đây, chúng tôi thiên về cách hiểu: Ngay cả tiếng chợ chiều đã vãn ở một làng xa nào đấy cũng không có nữa, tất cả đều vắng lặng, cô tịch; bởi lẽ trong toàn bộ bài thơ, dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ chiều nằm trong hệ thống không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau), chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh mông, xa vắng...
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
- Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. Sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót khắc hoạ được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bờ bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).
Câu 3: Hãy phân tích khổ thơ thứ ba.
Trả lời:
- Vẫn trong mạch cảm xúc được gọi ra từ hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước như cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng về sự chia li tan tác được lấy lại một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. “Không một chuyến đò” và cũng không có lấy một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang vu. Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
- Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra điều này còn có thể nhận thấy ở khổ hai (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều) và ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà), nhưng có lẽ rõ nhất vẫn là ở khổ thứ ba này. Bởi vậy có thể nói, thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu của bài thơ.
Câu 4: Hãy phân tích khổ thơ thứ tư.
Trả lời:
- Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và vẫn thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận. Ở đây, thiên nhiên tuy buồn nhưng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những đám mây đó, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc. Lấy lại ý thơ của người xưa (Đỗ Phủ), hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập: đối lập giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn.
3. VẬN DỤNG (4 câu)
Câu 1: Hãy nhận xét về phong cách của bài thơ.
Trả lời:
- Đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, trước hết chính là nỗi buồn của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.
- Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói sóng nhớ đến quê hương – Lầu Hoàng Hạc, Huy Cận không cần có khói sóng – tức là không cần có cái gợi nhớ – mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn. Vì thế, nó hiện đại hơn.
- Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi, nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng lượn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà, thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta. Đọc bài thơ này, có người nhớ đến cái làng ở vùng sơn cước heo hút bên bờ sông Thâm, tỉnh Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn của Huy Cận.
Và xét ở một phương diện nào đấy, Tràng giang đúng là một bài thơ “ca hát non sông đất nước; do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).
Câu 2: Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?
Trả lời:
- Bài thơ tạo dựng một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang, vô biên, đậm chất Đường thi. Đó là một hệ thống hình ảnh ước lệ thường được dùng trong thơ cổ: tràng giang; thuyền về, nước lại; nắng xuống, trời lên; sông dài, trời rộng; mây cao đùn núi bạc; bóng chiều; vời con nước; khói hoàng hôn,...
- Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên ấy lại có nét quen thuộc, gần gũi, phảng phất cảnh vật sông nước trên khắp đất nước Việt Nam: một dòng sông mênh mang, một con thuyền xuôi dòng; một cành củi khô và những cánh bèo trôi dạt lênh đênh; những bờ cây xanh; những bãi cát vàng; một cánh chim nhỏ in trên trời mây,...
è Sự hoà quyện của hai hệ thống hình ảnh đó tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà thân quen.
Câu 3: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?
Trả lời:
- Tình yêu thiên nhiên thấm đượm lòng yêu nước thầm kín: Đây là thời các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió (Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân,...). Huy Cận từng viết về nỗi buồn sông núi – nỗi buồn của người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn sầu ấy đã hoà vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.
Câu 4: Cách cảm nhận không gian và thời gian trong bài thơ này có gì đáng chú ý?
Trả lời:
- Tràng giang khắc hoạ một không gian rộng lớn. Đó là không gian của dòng sông sóng nước mênh mang như đang chảy về vô tận, rồi từ chiều dọc không gian mở ra theo chiều ngang, lan toả đôi bờ. Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở ra với bầu trời sâu chót vót. Cả ba chiều của không gian đều không có giới hạn, tất cả thấm sâu nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn cô đơn của nhà thơ.
- Tràng giang của đất trời, tràng giang của tâm tưởng nhà thơ không những trôi xuôi theo dòng nước mà còn trôi theo dòng thời gian từ hiện tại về quá khứ xa xôi. Rồi từ dòng sông thời tiền sử, nhà thơ lại trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương đất nước.
- Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở Tràng giang đã góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng, tình cảm của tác giả.
4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)
Câu 1: Vì sao câu thơ cuối Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu?
Trả lời:
- Câu thơ “Không khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc. Cùng viết về khói sóng buổi hoàng hôn, cùng gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng lại có sự khác biệt tiêu biểu cho thơ cũ, thơ cổ điển và thơ mới, thơ hiện đại. Thơ cũ tả cảnh ngụ tình, cảnh vật khơi gọi tâm trạng. Thơ mới, thơ của cái tôi nội cảm, không cần mượn tới ngoại cảnh mà vẫn tự biểu hiện với những cung bậc cảm xúc thiết tha.
Câu 2: Hãy tìm hiểu hai chiều không gian – thời gian và mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ.
Trả lời:
– Không gian được thể hiện trong bài thơ là khung cảnh tạo vật thiên nhiên với hai sắc thái nổi bật: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh. Còn thời gian trong bài thơ này là chiều muộn ("Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều") đang nghiêng dần về hoàng hôn ("Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa" và "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà").
– Quan hệ giữa hai chiều này thật rõ rệt.
+ Trước hết, là tác động tương hỗ giữa chúng: phải là buổi chiều thì không gian mới phơi lộ hết vẻ hoang sơ cô quạnh. (Nếu là thời điểm khác trong ngày, diện mạo đó của không gian sẽ không còn rõ nét thế nữa). Cả hai phụ hoạ với nhau tạo nên một khung cảnh thật rợn ngợp, gợi buồn sầu đối với con người, nhất là con người đang là kẻ cô lữ.
+ Đồng thời, cả không gian và thời gian đều vận động. Sông nước, thuyền, củi, bèo bọt, mây trời, chim chiều, bãi bờ,... đều như đang tiếp nối chảy trôi,... Còn buổi chiều càng lúc càng muộn hơn. Sự vận động vừa hữu hình vừa vô hình này cũng phụ hoạ nhau, hoà điệu với nhau khiến cho diện mạo của cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, hắt hiu, cảm xúc càng lúc càng nặng nề, u ám.
=> Giáo án Ngữ văn 11 kết nối Bài 2 Đọc 2: Tràng giang