Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức bài 1. Vợ nhặt
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 1. Vợ nhặt. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
BÀI 1: CÂU CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN KỂ VĂN BẢN 1: VỢ NHẶT
(15 câu)1. NHẬN BIẾT (5 câu)
(15 câu)
1. NHẬN BIẾT (5 câu)
Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản “Vợ nhặt” (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- Tác giả: Kim Lân
- Thể loại: Truyện ngắn hiện đại
- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
- Nội dung: Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động đó được thể hiện qua một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối thoại sinh động.
Câu 2: Trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Kim Lân.
Trả lời:
- Kim Lân (1920 – 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hoá cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê – những thú chơi và sinh hoạt văn hoá cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,... Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001 Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Câu 3: Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Nêu ý chính của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào.
Trả lời:
- Tác phẩm có thể chia làm năm phần:
+ Phần 1: Từ đầu "Cái đói đã tràn đến xóm này [...]" đến câu "Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ [...] ấy thế mà thành vợ thành chồng...". Phần này nói về việc Tràng dẫn thị về nhà trong khung cảnh ngày đói.
+ Phần 2: Tiếp theo đến "đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...". Phần này nói về câu chuyện nhặt vợ của Tràng.
+ Phần 3: Tiếp theo đến hết Lược một đoạn. Phần này nói về cuộc gặp gỡ giữa cụ Tứ và nàng dâu mới.
+ Phần 4: Tiếp theo đến "Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Phần này nói về sự thay đổi của nhà Tràng trong buổi sáng hôm sau và bữa cơm ngày đói.
+ Phần 5: Tiếp theo đến hết. Phần này nói về chuyện thuế má ngay trong cảnh đói khát và suy nghĩ của Tràng về hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc.
- Mạch truyện: Truyện không đi theo trình tự thời gian thông thường mà có chút thay đổi về trật tự. Các cảnh được miêu tả trong truyện đều được xuất phát từ tình huống anh Tràng lấy được vợ giữa những ngày đói khủng khiếp nhưng tác phẩm lại mở đầu bằng cảnh: Tràng đưa người “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ. Việc tác giả đưa phần 2 lên trước làm tăng sức hấp dẫn của truyện và thể hiện ý đồ nhấn mạnh vào câu chuyện “vợ nhặt” của tác giả. Việc Tràng có vợ giữa những ngày đói cùng cực khiến cho mọi người cảm thấy khó hiểu và bản thân anh cũng không ngờ đến. Đó là một câu chuyện đặc biệt, không ai nghĩ tới.
Câu 4: Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy anh Tràng đi cùng với một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của dân làng, của bà cụ Tứ, và của chính Tràng nữa cho thấy tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo như thế nào? Tình huống truyện đó có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của tác phẩm?
Trả lời:
– Người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng với một người đàn bà lạ về nhà (có vợ theo không) vì:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ (một anh nhà nghèo xấu trai, lại là dân ngụ cư).
+ Thời buổi đói khát này, người như Tràng, đến nuôi thân còn chẳng xong mà còn dám lấy vợ.
Nhưng khốn nỗi, nếu không gặp tình cảnh này thì ai mà thèm lấy Tràng. Đau xót ở chỗ, đây là “vợ nhặt”, có cần ăn hỏi, cheo cưới gì đâu. Đói khát như thế, mọi việc đều có thể bỏ qua, cho nên Tràng mới lấy được vợ.
Trong tình cảnh như vậy, việc Tràng lấy được vợ, thậm chí có vợ theo, là một chuyện lạ, nên ai cũng ngạc nhiên. Cả người lớn lẫn trẻ con xóm ngụ cư ngạc nhiên. Bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên. Và ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên: “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.
– Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo. Tình huống này được gợi ra ngay từ nhan đề của tác phẩm: Vợ nhặt. Như trên đã nói, trong tình cảnh đói khát khủng khiếp, người ta chết đói đầy đường, bản thân Tràng cũng đang trong cảnh đến nuôi thân còn chẳng xong, bỗng nhiên lại có vợ theo không về.
Tình huống vừa lạ, vừa hết sức éo le nói trên là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Qua tình huống độc đáo này, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ.
Câu 5: Dựa vào nội dung truyện, giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, anh (chị) hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945?
Trả lời:
– Nhan đề Vợ nhặt đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Đây không phải là cảnh lấy vợ đàng hoàng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, mà là “nhặt được vợ”.
– Chỉ riêng hai chữ “vợ nhặt” cũng đã nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng và cả của người đàn bà xa lạ nữa. Đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ. Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ rúng đến như vậy. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
2. THÔNG HIỂU (5 câu)
Câu 1: Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng (lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ)?
Trả lời:
– Trong truyện ngắn Vợ nhặt, niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua nhân vật Tràng. Lúc đầu, khi có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà, không phải Tràng không có chút phân vân, do dự: “Mới đầu anh chàng cũng chọn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng sau một thoáng do dự, hắn đã tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!” rồi đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Cái quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ này, đã cụ thể hoá ý đồ nghệ thuật của Kim Lân khi viết Vợ nhặt: “...Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người".
– Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc niềm khát khao hạnh phúc gia đình của nhân vật Tràng. Sự kiện bất ngờ nhặt được vợ làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng. Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng như đã thành một con người khác: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, người đàn bà càng thêm “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, còn Tràng “lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Nhưng chính Tràng cũng không khỏi có lúc “cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà”. Kim Lân đã diễn tả vừa cụ thể, vừa sinh động niềm khao khát tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thực sự thấy cuộc đời mình từ đây đã thay đổi hẳn. Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”; chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, con người ta bỗng thấy mình trưởng thành. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức về bổn phận, trách nhiệm: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Câu 2: Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Qua đó, anh (chị) hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?
Trả lời:
– Bà cụ Tứ là nhân vật được xây dựng dụng công nhất trong tác phẩm, thể hiện chiều sâu tư tưởng, gửi gắm thông điệp về tình yêu thương con người. Đó là hình ảnh của người mẹ già nghèo khổ, bất hạnh nhưng cũng là một người mẹ giàu tình yêu thương. Tâm trạng tinh tế, phức tạp của bà cụ Tứ sau khi Tràng có vợ được Kim Lân miêu tả hết sức sinh động, khéo léo. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo lắng, phấp phỏng, đến những day dứt, băn khoăn rồi xót thương, chua chát và cuối cùng là vui vẻ chấp nhận,... tất cả đã thể hiện tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Ngạc nhiên là tâm trạng đầu tiên, cũng là phản ứng tất yếu của một người mẹ quen sống lầm lũi, neo đơn. Với bà, việc Tràng dẫn người đàn bà về nhà là một việc bất thường, khác lạ, gây ra sự ngỡ ngàng, bất ngờ, đẩy bà vào thế bị động. Tràng lấy vợ là một việc trọng đại, bà ngạc nhiên bởi sự thay đổi lớn trong gia đình. Tác giả đã diễn tả sự ngạc nhiên của bà cụ quả một loại những câu hỏi mà bà tự đặt ra cho mình. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu nghi ngờ, lạ lẫm. Nhưng nỗi khổ sở, sự nghèo đói thường nhật đã thấm quá sâu vào tâm can bà, khiến bà đón nhận tin vui của con trong một sự nín lặng. Hình như bà cũng chẳng biết nên vui hay nên buồn, nên cười hay nên khóc. Nỗi tủi phận, thương tâm đến sâu thẳm của số phận con người đã được Kim Lân dồn tụ trong sự câm lặng của một bà cụ. Bà phải kìm nén bao nhiêu tâm sự của mình để chọn một trạng thái duy nhất. Nghệ thuật độc thoại nội tâm được sử dụng khá thành công, sau giây phút im lặng ấy, bà hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Những câu văn được viết từ nước mắt xót đau của tác giả, lời than của bà cụ là lời than của mọi kiếp người khốn khổ trong xã hội. Bao nhiêu quan niệm về bổn phận, trách nhiệm của một người mẹ được đánh thức trong và. Bà cảm thấy mình có tội với con, những câu bà tự nhủ giống như lời tự thú đau đớn của con người. Cái đói, cái nghèo kéo ghì số kiếp con người, làm con người phải quần lưng, oằn xuống để gánh trả nó, nhưng đó vẫn là món nợ đeo đẳng, riền miên suốt cả một đời.
– Sau khi hiểu ra cơ sự, khi có thời gian để ngẫm về cuộc đời mình, bà mới khóc. Giọt nước mắt rỉ xuống trong kẽ mắt kèm nhèm là giọt nước mắt tủi thân, tủi phận khi bà ý thức sâu sắc về cuộc đời khốn khổ của mình. Giọt nước mắt trào ra như muốn diễn tả bao nhiêu day dứt, tức tưởi, dằn vặt, lo lắng của con người. Đó là hệ quả tất yếu của sự kìm nén, nín lặng trong ai oán, xót thương ở trên, đó là những giọt nước mắt của cuộc đời tủi nhục, đau đớn. Bà quay lại nhìn người đàn bà con mình ấy làm vợ, từ tình thương cho con trai bà chuyển sang tình thương cho con dâu. Đó là sự gặp gỡ, đồng cảm trong tâm hồn những người phụ nữ bất hạnh, bà Tứ không chỉ ý thức được nỗi khổ của đời mình, của con mình mà còn biết cảm thông với nỗi khổ của người đàn bà tội nghiệp kia. Dường như có một mối dây liên hệ kì diệu giữa tâm hồn những người phụ nữ đồng cảm, trái tim họ cùng đập nhịp đập của những sẻ chia yêu thương, khát khao hạnh phúc. Đến đây, bà thương con trai thì ít mà tội và thương con dâu nhiều hơn. Nước mắt ròng ròng của bà cụ Tứ là nước mắt của sự đồng cảm, nỗi sẻ chia. Dường như bà muốn dùng nước mắt để gột rửa nỗi đau của thân phận mình. Tiếng khóc lúc này là sự giãi bày lòng mình, sự đi tìm những đồng cảm với các con. Cuối cùng, bà chấp nhận câu chuyện Tràng lấy vợ trong sự mừng vui, hạnh phúc, là vẽ ra viễn cảnh tương lai cho các con: ngăn nhà, tàu dọn nhà cửa, chủ động nói chuyện vui, đãi chè khoán,... Những ước mơ, khát vọng là biểu hiện cao nhất của tình yêu con, là nỗi trăn trở xưa nay vẫn chưa được làm tròn. Niềm tin, khát vọng, sự sống vẫn được thắp sáng trong tâm hồn con người dù già nua, dù đã muốn gần đất xa trời. Đây chính là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của Kim Lân, là cái đẹp của chủ nghĩa nhân văn, là triết lí tình thương vượt lên mọi đau khổ. Món chè khoán ngon trong tình yêu thương nhưng vẫn thấy nghẹn chát cái dư vị của đói nghèo, thể hiện niềm vui ám ảnh, tội nghiệp, nhỏ nhoi của con người. Hình ảnh, tâm trạng bà cụ Tứ thể hiện chiều sâu tư tưởng của Kim Lân, là nhân vật điển hình của bà mẹ Việt Nam khốn khó, bất hạnh nhưng giàu yêu thương, nhân ái.
Câu 3: Qua văn bản, hãy nêu ra những điểm chính trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân.
Trả lời:
Nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân thể hiện qua các phương diện:
– Có sự sáng tạo trong cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên mà hấp dẫn. Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị, chặt chẽ. Kim Lân đã khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
– Đối thoại sinh động, hấp dẫn, làm rõ tâm lí của từng nhân vật.
– Miêu tả tâm lí tinh tế.
– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng do đó tạo được sức gợi đáng kể.
Câu 4: Hãy phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm.
Trả lời:
- Đoạn kết của truyện ngắn Vợ nhặt có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm. Truyện được khép lại bằng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh phấp phới bay trong đầu óc Tràng. Những hình ảnh này đối lập với những hình ảnh thê thảm về cuộc sống của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, được tác giả miêu tả ở phần đầu của thiên truyện. Cái kết thúc như vậy gợi ra xu hướng phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình trạng đói khổ cùng đường, thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975.
Câu 5: So sánh sự khác nhau về tâm lí giữa Tràng và bà cụ Tứ.
Trả lời:
- Sự khác nhau về tâm lí giữa hai mẹ con bà cụ Tứ là sự khác nhau giữa một người còn trẻ dù sao cũng chưa trải nghiệm nhiều về cái nghèo, cái đói và một bà già đã sống trong nghèo đói cả một đời người.
- Cho nên Tràng có vẻ vô tâm hơn, cái vui lấy được vợ lấn át tất cả. Anh ta "reo lớn như một đứa trẻ" khi mẹ về và không hiểu được vì sao mẹ lại khóc. Còn bà cụ Tứ thì vừa vui mừng vừa lo lắng, buồn tủi, lòng ngổn ngang "biết bao nhiêu cơ sự". Bà cụ hiểu rất rõ sự khắc nghiệt của đời sống những người dân nghèo khổ.
3. VẬN DỤNG (3 câu)
Câu 1: Hãy cho biết giá trị nhân bản của văn bản.
Trả lời:
– Miêu tả cảnh nhặt vợ diễn ra âm thầm, buồn tủi, thiên truyện ngắn này đã làm nổi bật số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng. Lấy vợ, lấy chồng là một sự kiện vui mừng lớn lao trong đời mỗi con người, nhưng trong trường hợp của Tràng, niềm vui đó diễn ra dưới sự rập rình đe doạ của cái nghèo, cái đói.
– Song, giá trị nhân bản của Vợ nhặt không chỉ nằm ở lời kết tội đanh thép giặc Pháp và Nhật. Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, khao khát tổ ấm gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và vẫn không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hi vọng. Người đàn bà đói rách sở dĩ tự nguyện theo không Tràng, một phần vì tìm thấy ở anh một cử chỉ hào hiệp: sẵn lòng cho một người xa lạ một miếng ăn giữa lúc người chết đói như ngả rạ. Và chính Tràng cũng không ngờ người đàn bà lại theo mình một cách dễ dàng như vậy. “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chọn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng đã đánh đổi tất cả để có được một người vợ, có được hạnh phúc. Cái quyết định có vẻ liều lĩnh ấy nói lên rằng, từ trong sâu thẳm của tiềm thức, con người vẫn khao khát hạnh phúc, bất chấp sự đe doạ của cái đói, cái chết. Niềm khao khát đầy tính nhân bản ấy là trường tồn, là bất diệt, và chính nhờ nó mà con người mãi mãi tồn tại trên cõi đời này.
Câu 2: Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh (chị)? Vì sao?
Trả lời:
Hãy trả lời theo suy nghĩ của em.
Tham khảo:
Tác phẩm có nhiều chi tiết rất thật, hiện lên dưới nhiều góc độ phong phú, nhiều sắc độ tình cảm. Trong đó, đặc biệt nổi bật là chi tiết về người đàn bà ăn bốn bát bánh đúc.
Thị ở đâu sầm sập chạy đến... đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói: “Điêu! Người thế mà điêu!”. Thái độ sưng sỉa của thị như muốn quát vào mặt Tràng: Tôi đói quá nhưng không xin ăn. Anh bảo tôi cùng đẩy xe bò để có ăn, vậy mà chẳng có, người thế mà điêu. Tôi mắng anh là điêu nhưng tôi vẫn đứng trước mặt anh đây, hy vọng, trông cậy và... “cong cớn”! “Đấy, muốn ăn thì ăn... Rích bố cu, hở!" Chỉ chờ có vậy, “Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn, sợ gì”. Đói đến mắt trũng hoáy, nhưng vẫn cứ là người, mà lại là người lương thiện: Ăn thật nhá! Anh không nói đùa đấy chứ, em ăn thật đây, không có gì phiền cho anh chứ? “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền, chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở!” Cắm đầu ăn vì đói quá, còn một chữ thở mà nói lên bao điều: vừa mệt lại vừa sung sướng... Ai đã bao giờ đói lả mà được cho ăn chưa mới hiểu chữ thở hay đến mức nào, còn nếu chưa, chắc hẳn cũng cảm nhận được cái gì sẽ xảy ra khi người ta đói lả mà được cho ăn; chữ thở hay hơn chữ sáng mắt ở câu trên, tuy hai chữ sáng mắt cũng có giá. “Hà ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố." Sự thăm dò tự nhiên và khéo léo, cũng như nghĩ về một người đàn bà khác, nếu có sẽ bị thua thiệt vì mình... Những chi tiết đắt giá như vậy đầy ắp từ đầu tới cuối truyện.
Câu 3: Đặc điểm của người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật được thể hiện như thế nào trong văn bản?
Trả lời:
- Người kể chuyện giấu mình trong Vợ nhặt bắt đầu kể chuyện Tràng dẫn vợ về từ bối cảnh chết chóc của làng quê, từ cặp mắt ngạc nhiên của những người dân trong xóm. Cảnh gặp người đàn bà được kể bởi điểm nhìn của Tràng, cảnh về nhà giới thiệu vợ với mẹ cũng được kể theo con mắt Tràng, tiếp đó chuyển sang kể theo con mắt quan sát và suy nghĩ của bà mẹ. Cảnh sáng hôm sau ngủ dậy được kể qua cảm giác tràn đầy hạnh phúc của Tràng, sự quan sát của anh về những biến đổi của người vợ. Đoạn kết cũng được kể qua ý thức của Tràng. Điểm nhìn trần thuật ấy đã di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, nhưng luôn dành cho Tràng một vị trí trung tâm, hé mở cho thấy từ khát vọng hạnh phúc lứa đôi, Tràng đã mơ hồ cảm thấy phải tham gia vào hành động chung của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Việt Minh để tự giải phóng.
4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)
Câu 1: Hãy trình bày nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của tác giả Kim Lân.
Trả lời:
– Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề: Vợ nhặt. Một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải vợ cưới). Đây là một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Trong lúc mọi người đang đói quay quắt, lo nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại còn dám “đèo bòng”. Một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về. Không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới, chỉ cần có mấy lời tầm phào và vài bát bánh đúc mà có vợ. Cái giá của một con người thật là rẻ rúng.
– Tình huống nói trên của truyện đã làm nổi bật một sự thật thê thảm của người nông dân trước Cách mạng. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái sự thực bi thảm đó hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhà văn Kim Lân, bằng tài năng của mình, đã miêu tả nạn đói có một không hai trong lịch sử dân tộc bằng những chi tiết cụ thể, chân thật, giàu ý nghĩa nghệ thuật.
– Cái đói đã tràn vào xóm chợ của những người ngụ cư tự lúc nào, làm đảo lộn cảnh sinh hoạt của xóm nhỏ tồi tàn ấy. Kim Lân đã dựng nên một bức tranh ảm đạm bao trùm lên xóm ngụ cư. Không còn tiếng trẻ con trêu đùa làm cho cái xóm chợ xôn xao lên vào lúc chạng vạng mặt người mỗi buổi chiều khi Tràng đi làm về. Thay vào đó là hình ảnh lũ trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”. Và trên con đường “khẳng khiu” luồn qua xóm chợ vào trong bến, Tràng cũng không còn vừa đi vừa tủm tỉm cười nữa mà đi “từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẫn chúi về đằng trước”. Bao quát hơn, nhà văn đã miêu tả những kẻ đói khát, những người hành khất từ những vùng Nam Định, Thái Bình “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Một không khí chết chóc thê thảm bao trùm lên xóm chợ: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Kim Lân cứ từ tốn, lặng lẽ miêu tả, vậy mà những dòng chữ của ông có sức tố cáo mãnh liệt. Tội ác tày trời ấy chính là do giặc Pháp, giặc Nhật, một mặt thi nhau vơ vét thóc gạo, mặt khác lại bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh.
– Nạn đói khủng khiếp năm 1945, qua ngòi bút Kim Lân, còn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và số phận của mỗi con người. Cái đói đã đẩy những người dân lao động bình thường, cực chẳng đã, phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình. Người đàn bà là vợ theo của Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chua xót hơn nữa, chuyện tỏ tình giờ đây chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện sà vào miếng ăn:
“– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
– Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
– Chỉ có bốn bát bánh đúc mà theo không một anh chàng xấu trai, gặp tầm phơ tầm phào ở giữa đường. Chỉ có hai hào dầu thắp tối chuẩn bị cho đêm tân hôn mà đã được gọi là “sang”, là “hoang” phí lắm lắm. Ngay cả đến bữa cơm đầu tiên sau ngày có nàng dâu cũng thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. “Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẫn”. Cực chẳng đã, bà mẹ chồng đành phải thết nàng dâu cái món cháo cám mà bà gọi là “chè khoán”. “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.
– Người đàn bà đói khát bỗng dưng có nơi nương tựa, và Tràng bỗng nhiên mà có vợ – trong cảnh ngộ cụ thể của họ – là một niềm vui, niềm hạnh phúc. Thế nhưng, cái đói và cái chết vẫn bám riết, đe doạ niềm vui và niềm hạnh phúc quá đỗi mong manh của vợ chồng Tràng. Không khí thê lương, ảm đạm, chết chóc như vẫn bao phủ căn nhà tuềnh toàng của họ: “Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. “Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Và “trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ”.
– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện tài tình của tác giả đã tạo nên giá trị nhân bản cho truyện ngắn.
Câu 2: Hãy trình bày về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Kim Lân.
Trả lời:
– Đặt nhân vật vào một tình huống vừa kì quặc vừa oái oăm, vừa mừng vui vừa bị thảm, Kim Lân đã theo dõi sự diễn biến tâm lí của nhân vật. Chính những trang phân tích và diễn tả tâm lí sắc sảo, hóm hỉnh và tinh tế đã đem đến cho thiên truyện một sức hấp dẫn thực sự.
– Người đàn bà “chao chát chỏng lỏn” là thế, khi lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, trong lòng vừa tủi phận, vừa e thẹn, ngượng ngập. Trước cái vẻ “phón phở”, “tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” của Tràng, cái vẻ e thẹn, ngượng ngập của thị càng nổi bật hơn: “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Cái dáng vẻ ấy của thị không giấu nổi những cặp mắt tò mò của xóm ngụ cư. Người ta thấy thị “thèn thẹn hay đáo để”. Khi nhận thấy những người xung quanh đang nhìn dồn cả về phía mình, “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Cả đến khi gặp bà cụ Tứ, thị vẫn còn e thẹn và khép nép. Kim Lân, qua những chi tiết miêu tả này, đã chứng tỏ sự thấu hiểu tình cảnh tội nghiệp của người vợ nhặt. Hoàn cảnh tàn nhẫn xô đẩy chị có lúc thành ra kẻ cong cớn, trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị không phải là một người như vậy. Chị chưa mất đi cái e thẹn, ngượng ngập, tủi hổ khi bị rơi vào cảnh ngộ trớ trêu.
– Người đàn bà theo không Tràng trước hết là để có một nơi nương tựa để khỏi chết đói. Chính vì thế nên khi đã nhìn thấy cái nhà “vắng teo đúng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, khi đã đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực “gầy lép” của thị “nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Té ra, cái gia cảnh của anh chàng vừa mới ban chiều còn khoe là “rích bố cu” là thế này đây! Đáp lại lời thanh minh của Tràng, thị “nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Đã chấp nhận theo không một người xa lạ, xấu trai, ế vợ mà vẫn không sao tránh khỏi cái đói. Nhưng ngòi bút nhân hậu của Kim Lân không nỡ khoét sâu vào cảnh trớ trêu ấy. Không tìm được sự no ấm nhưng người đàn bà đã tìm thấy sự đầm ấm của một gia đình. Và ngòi bút của Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế và cảm động những bước chân ngượng ngập, e thẹn trên đường về nhà chồng, cái dáng điệu khép nép trước bà mẹ chồng của người vợ nhặt. Rồi tiếng chào u lúng túng, và cả những lời đối đáp, cái “phát đánh đét" vào lưng, cái củng vào trán Tràng kèm theo một tiếng “do” đã đem đến cho người đàn bà tội nghiệp cái hạnh phúc của một nàng dâu đích thực. Cái hạnh phúc ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong tính cách của người đàn bà, đến nỗi làm cho Tràng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
– Giá trị nhân bản của Vợ nhặt sẽ giảm đi rất nhiều nếu thiên truyện thiếu vắng nhân vật bà cụ Tứ. Đặt nhân vật vào hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ trước tình huống đứa con trai vào giữa những ngày đói khủng khiếp, bỗng dưng nhặt được vợ về, nhà văn đã theo dõi, phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật, qua đó, làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
– Thấy Tràng “reo lên như một đứa trẻ”, vồn vã khác thường khi thấy mẹ “lọng khọng” đi vào ngõ, tâm trạng bà cụ Tứ cũng trở nên “phấp phỏng”. Có cái gì đó bất thường đang chờ đợi bà. “Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn”. Kim Lân đã khéo chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng đầy ngạc nhiên của bà cụ: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đúng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?”. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa nhưng vẫn không nhận ra người nào. Sự ngạc nhiên ấy còn được bộc lộ qua bước chân “lập cập” của bà lão. Bà cụ Tứ càng ngạc nhiên hơn khi nghe thấy tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u. Và cho tới khi nghe Tràng phân trần, cắt nghĩa, bà cụ mới hiểu. “Bà lão cúi đầu nín lặng”. Một sự im lặng chất chứa biết bao suy nghĩ. “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
– Ở đây, cần phải thấy cái tinh tế của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân. Nếu như khi nhận rõ gia cảnh nhà Tràng, người đàn bà còn đủ sức “nén một tiếng thở dài”, thì bà cụ Tứ, khi đã thấu hiểu cơ sự của con đã không sao giấu nổi sự ngao ngán của mình. “Bà lão khẽ thở dài ngưng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà”. Và từ chỗ xót xa cho đứa con trai, bà lão chuyển sang thương xót người đàn bà. Người mẹ nghèo, nhân hậu, giàu lòng vị tha, rất mực nhạy cảm ấy đã thấu hiểu ngay cái cảnh ngộ của người phụ nữ xa lạ bỗng trở thành con dâu của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật, lại một lần nữa, diễn tả chân thật và cảm động những suy nghĩ âm thầm của người mẹ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
– Diễn biến của truyện Vợ nhặt đến đây đã lên tới đỉnh điểm. Tất cả các nhân vật đều sống trong một tâm trạng căng thẳng. Người ta chờ đợi tiếng nói phán quyết của người mẹ.
– Sau khi khẽ dặng hắng một tiếng, bà lão ôn tồn, “nhẹ nhàng” nói với nàng dâu:
“Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng.” Nghe lời nói ấy, “Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”. Lời nói ấy cũng trả lại danh dự nàng dâu cho người đàn bà là vợ nhặt.
– Người ta bảo người già cả nghĩ. Bà cụ Tứ vẫn không hết lo lắng, từ tốn dặn dò nàng dâu mới: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau...”.
– Tâm trạng bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Niềm vui của người mẹ nghèo khổ trong cảnh ngộ này thật tội nghiệp. Nó trở nên héo hắt vì không sao thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương. “Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Song nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ. “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót”. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ những mong con dâu mình hoà thuận: “Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Bà cụ Tứ nghẹn lời không nói được nữa, “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
– Vậy là, đặt nhân vật vào tình huống độc đáo, Kim Lân đã miêu tả thành công nhân vật với những tâm trạng khác nhau, mỗi người một vẻ. Tràng thì có vẻ phản phơ tự đắc, người đàn bà thì có vẻ ngượng ngập và tủi hổ, còn bà cụ Tứ thì vừa ai oán xót thương vừa lo lắng cho cảnh ngộ của dâu con.
– Theo lời của Kim Lân, viết Vợ nhặt, ông không muốn dìm người đọc trong cái buồn, cái khổ, cái đói. “Khi viết về cái đói thường mọi người có ý nghĩ là khi đói người ta khổ cực và chỉ muốn chết. Tôi định viết một số truyện ngắn nhưng với ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.
– Ý đồ nghệ thuật ấy đã khiến ngòi bút Kim Lân miêu tả diễn biến tâm trạng của các nhân vật chuyển biến theo một chiều hướng tích cực. Tâm trạng của bà cụ Tứ cũng diễn biến theo chiều hướng chung ấy. Sự xuất hiện của nàng dâu mới đã đem đến cho cái gia đình nghèo khổ này một không khí “đầm ấm, hoà hợp” chưa bao giờ có. Trong không khí ấy, bà cụ Tứ thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Cùng với nàng dâu, bà cụ xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Một ý thức về bổn phận và trách nhiệm sâu sắc hơn nảy sinh ở tất cả các thành viên của gia đình: “Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp của nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Người mẹ từng trải và nhân hậu ấy đã bằng mọi cách nhen nhóm một niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình. “Bà cụ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau”. Chính niềm vui, niềm tin vào cuộc sống ngày mai ấy đã hướng con người vào những hành động thiết thực để tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
=> Giáo án Ngữ văn 11 kết nối Bài 1 Đọc 1: Vợ nhặt