Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức bài bài 7: Một hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: Đặc điểm và tác dụng

Bộ câu hỏi tự luận  Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 7: Một hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: Đặc điểm và tác dụng . Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học  Ngữ văn 11 kết nối tri thức

Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức

BÀI 7: GHI CHÉP VÀ TƯỞNG TƯỢNG TRONG KÍ

THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT: MỘT HIỆN TƯỢNG PHÁ VỠ NHỮNG QUY TẮC NGÔN NGỮ THÔNG THƯỜNG : ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC DỤNG
(15 câu)

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Việc phá vỡ quy tác ngôn ngữ thông thường có hiệu quả như thế nào trong diễn đạt?

Trả lời:

Thể hiện cái nhìn độc đáo của người viết về đối tượng, gợi những liên tưởng lạ lùng, mới mẻ cho người đọc, làm mới cách biểu đạt, tránh sự sáo mòn trong sử dụng từ ngữ…

Câu 2: Xác định sự phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường ở những ví dụ dưới đây.

a.

 Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Trả lời:

  1. Sử dụng hình thức đảo ngữ, phá vỡ trật tự câu thông thường
  2. Phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường ở từ “sâu chót vót”

 

Câu 3: Câu thơ nào dưới đây thể hiện hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học?

  1. Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
  2. Lòng quê dờn dợn vời con nước
  3. Thân em vừa trắng lại vừa tròn
  4. Trăng rất trăng là trăng của tình duyên.

Trả lời:

Câu thơ a, b, d thể hiện hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học

Cụ thể, câu a từ “thâu”, câu b là từ “dợn dợn”, câu d là từ “rất trăng” đều để đạt được mục đích diễn đạt của nhà thơ.

 

Câu 4: Câu thơ nào sử dụng hình thức đảo ngữ để phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường?

  1. Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
  2. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
  3. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Trả lời:

Cả ba câu thơ đều sử dụng hình thức đảo ngữ để phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường.

Câu a đảo vị ngữ “lắt lẻo” lên trước chủ ngữ “cành thông”, câu b đảo trạng ngữ “trước giậu” vào giữa câu, câu c đảo vị ngữ “lơ thơ” lên trước chủ ngữ “cồn nhỏ” đều để nhấn mạnh vào tính chất và vị trí của sự vật.

 

Câu 5: Tìm các câu cao dao, thành ngữ hoặc tục ngữ có hiện tượng phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường.

Trả lời:

Căng da bụng, chùng da mắt.

Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành. 

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Xác định biểu hiện của sự phá vỡ trật tự ngôn ngữ thông thường ở đoạn văn dưới đây. Cho biết tác dụng.

Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

Trả lời:

Sự phá vỡ trật tự ngôn ngữ thông thường trong đoạn văn trên thể hiện ở những từ ngữ trái logic: “áng tóc trữ tình”, “màu xanh canh hến”, “sông Đà lừ lừ chín đỏ”, “màu đỏ giận dữ”.

Tác dụng: giúp cho diễn đạt sinh động, thú vị, nhà văn miêu tả con sông Đà với những liên tưởng, tượng hết sức độc đáo về hình dáng và màu sắc, con sông hiện lên vừa chân thực, vừa thi vị trữ tình.

 

Câu 2: Tìm và phân tích hiện tượng phá vỡ trật tự thông thường của từ trong  câu sau.

  1. Tình thư một bức phong còn kín, 

Gió nơi đâu, gượng mở xem.

(Nguyễn Trãi)

  1. Lom khom dưới núi, tiều vài , 

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

(Bà Huyện Thanh Quan)

Trả lời:

  1. "Tình thư một bức phong còn kín" - Thay đổi trật tự từ trong cụm từ. 
  2. Cả hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan đều sử dụng nguyên tắc đảo trật tự từ trong câu. Cả hai câu đều đảo chủ ngữ và vị ngữ cới nhau, chủ ngữ ra sau còn vị ngữ ra trước. 

Câu 3: Hãy nhận diện và phân tích ý nghĩa của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường được thể hiện trong hai câu thơ sau (trích Tràng giang):

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Trả lời:

Câu thơ trên được tác giả sử dụng hình thức đảo ngữ đó là từ “lơ thơ” và từ “đâu” lên đầu của mỗi câu thơ. Theo lẽ thường, câu thơ có thể là “Cồn nhỏ lơ thơ gió đìu hiu/ Tiếng làng xa đâu vãn chợ chiều.” nhưng ở đây tác giả đã sử dụng hình thức đảo nghĩa tài tình nhằm nhấn mạnh sự hoang vắng, quạnh quẽ nơi bãi cồn, sự tàn chợ của những phiên chợ chiều, tất cả đều mang theo sự tiếc nuối, ngóng trông. Cồn cát thì trở lên đìu hiu, vắng vẻ với tiếng gió heo hút càng nhấn mạnh sự cô đơn, chán nản, buồn tẻ cho nhân vật trữ tình. Rồi những tiếng mặc cả, tiếng rao bán hàng của những phiên chợ chiều cũng biến mất, thay vào đó cũng là một không gian yên tĩnh, vắng tiếng cười nói của con người… Bởi vậy, hình thức đảo ngữ này không chỉ nhấn mạnh vào sự hiu hắt, quạnh quẽ của cảnh vật mà qua đó tác giả cũng muốn nói lên nỗi buồn thầm kín ẩn sâu trong tâm hồn mình, một nỗi buồn man mác, cô đơn giữa đất trời, vũ trụ bao la rộng lớn của một con người mang trong mình tâm trạng trĩu nặng. Có thể nói tác giả Huy Cần đã rất khéo léo khi sử dụng những từ láy "lơ thơ, đìu hiu" để tăng hiệu quả tạo hình, vừa diễn tả được những tâm trạng cô đơn, phức tạp của nhân vật trữ tình. Trong không gian rợn ngợp của cồn cỏ, sự xuất hiện của "tiếng làng xa vãn chợ chiều" tưởng chừng sẽ lấy lại chút sinh khí cho cảm xúc của bài thơ nhưng vô tình lại càng làm cho cảnh thơ thêm buồn. Tiếng làng xa ở đây không phải âm vọng của cuộc sống thực mà nó được vọng lên từ tâm tưởng, từ khát khao cháy bỏng của nhà thơ. Nhà thơ như đang mải miết kiếm tìm những âm thanh, dấu hiệu của cuộc sống nhưng bất lực trong sự trăn trở khôn xiết "đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".

Câu 4: Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trang kết hợp từ "buồn điệp điệp” ở câu thơ “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp” (Tràng Giang – Huy Cận).

Trả lời:

"Điệp điệp” gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Từ láy “điệp điệp” vốn được dùng để chỉ những sự vật có số lượng nhiều và nối tiếp nhau như núi trùng trùng điệp điệp → chỉ những ngọn núi nhấp nhô nối tiếp nhau từ dãy núi này đến dãy núi khác. Nhưng ở đây, tác giả sử dụng từ “điệp điệp” không phải để chỉ sự vật mà để chỉ nỗi buồn của nhân vật trữ tình. Theo đó, người đọc có thể hiểu tác giả đang rơi vào một tâm trạng buồn với nỗi buồn kéo dài bất tận. Từ đó giúp người đọc dễ dàng hiểu được tâm lý của nhân vật trữ tình nhờ vào sự kết hợp từ khéo léo để đưa ra một sự thể hiện sâu sắc nhất, đúng nhất và độc đáo nhất về nỗi buồn của nhân vật trữ tình. 

 

Câu 5: Biện pháp đảo ngữ trong câu thơ sau có vai trò gì?

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”

Trả lời:

Biện pháp đảo ngữ từ vị ngữ đảo lên trước chủ ngữ ở từ lao xao

Tác dụng: Diễn tả âm thanh cuộc sống huyên náo và nhộn nhịp

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Phân tích hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường gây nên tiếng cười bất ngờ trong câu chuyện sau.

Sư cụ xơi thịt cầy vụng ở trong phòng. Chủ tiểu biết, hỏi:

- Bạch cụ, cụ xơi gì trong ấy ạ?

Sư cụ đáp:

- Tao ăn đậu phụ.

Lúc ấy, có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài cổng chùa. Sư cụ hỏi: – Cái gì ngoài cổng thể?
Chú tiểu đáp:

- Bạch cụ! Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa đấy ạ!

(Truyện cười dân gian)

Trả lời:

Truyện gây cười do vi phạm quy tắc hội thoại, cụ thể trong lời nói của chú tiểu vi phạm phương châm về chất. “Đậu phụ là món ăn được chế biến từ đậu tương, được ép thành bánh” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê). Ta thường thấy có đậu phụ cân, đậu phụ thanh chứ không thấy có đậu phụ làng, đậu phụ chùa và càng không thể có “đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa”. Người đọc bật cười vì cách đáp của chú tiểu. Bởi chú tiểu biết chắc sư cụ xơi thịt cầy vụng mà sư cụ lại bảo ăn đậu phụ nên chú tiểu trả lời sư cụ như một sự chấp nhận câu nói của sư cụ. Cả hai nhân vật giao tiếp cùng vi phạm quy tắc hội thoại khi đã trả lời không đúng sự thật – vi phạm phương châm về chất.

 

Câu 2: Trong bài Tì bà của Bích Khê, hai câu thơ cuối được tác giả viết như sau:

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. 

(Bích Khê, Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, 1939). 

Ở một số bản in về sau, hai câu thơ trên đã có một biến đổi: 

Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. 

(Thơ Bích Khê, Sở văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, 1988). 

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, theo bạn, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là gì? Dựa vào bản in bài thơ năm 1939, hãy làm rõ sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ ở điểm này.

Trả lời:

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là do tác giả đã phát hiện ra một nét nghĩa mới về câu thơ. 

Theo bản in năm 1939, ở đây tác giả đang muốn nói đến sự trở lại của nỗi buồn trong tác giả, tưởng như vô hình nhưng thực ra nó vẫn tồn tại khiến tác giả thốt ra lời cảm thán “Ô!”. Nỗi buồn đó đang cùng với cây ngô đồng rải xuống những cánh hoa vàng theo gió thu. Phải chăng là “thu mênh mông” hay chính là nỗi buồn mênh mông của tác giả. Câu thơ này khiến chúng ta xúc động, thương cảm đối với sự tài hoa của Bích Khê. 

Nhưng đến bản dịch năm 1988, người dịch đã bỏ dấm chấm hỏi đi và để câu thơ thành “Ô hay buồn vương cây ngô đồng…”. Cách viết như vậy nhằm thể hiện một sự chắc chắn, khẳng định của tác giả. Nếu từ “Ô! Hay…” gợi lên cảm giác về một nỗi buồn còn mơ hồ, không biết là thực hay hư thì đến bản dịch này, người dịch dường như khẳng định nỗi buồn đó chính là của tác giả một nỗi buồn miên man, mênh mông bao trùm lên cảnh vật.

 

Câu 3: Phân tích giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở câu thơ "Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa" trên cơ sở liên hệ đến chức năng thông thường của dấu hai chấm trong văn bản.

Trả lời:

Giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở dòng thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”: Tác giả đã bổ sung chức năng mới cho dấu câu, diễn tả hai hình ảnh đối lập nhau. Dấu hai chấm không chỉ đơn thuần để ngắt câu mà nó còn mang dụng ý nghệ thuật sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn không gian bao la, bát ngát đến vô tận. Con chim lẻ loi đơn độc này dường như đang mang một gánh nặng, một bóng chiều trong mình, không chỉ trong cảm xúc, mà còn trong dòng chảy nghệ thuật đang tiến trên trang giấy.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Các hiện tượng phá vỡ quy tắc  ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học gồm mấy hiện tượng? Nêu đặc điểm của từng hiện tượng.

Trả lời:

- Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm lạ hóa đối tượng được nói đến

- Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện

- Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề câp. Đồng thời bổ sung chức năng mới cho dấu câu khi trình bày văn bản trên giấy.

 

Câu 2: Viết đoạn văn nêu với chủ đề tự chọn trong đó có hiện tượng phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường.

Trả lời:

Tình yêu quê hương là một tình yêu thường trực trong tâm hồn mỗi con người. Bởi quê hương là nơi ta sinh ra, lớn lên và có những kỉ niệm về một tuổi thơ êm đềm. Quê hương gắn với những chiều ngả mình trên lưng trâu, lim dim đôi mắt nhìn bầu trời xanh và lắng nghe tiếng sáo diều. Quê hương gắn với những cánh cò, những rặng tre rì rào, những cánh đồng lúa chín thơm vàng ửng. Quê hương gắn với ngọt ngào lời ru của bà, êm đềm tiếng khua nước trên sông, vi vu tiếng sáo diều trên triền đê vào mỗi buổi chiều tà. Tình yêu quê hương còn là tình cảm gắn bó với giang sơn, đất nước, với lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc. Quê hương nào không là một phần máu thịt của tổ quốc, giang sơn. Yêu quê hương là một biểu hiện của lòng yêu Tổ quốc. Dựng xây quê hương cũng là một cách xây dựng đất nước mình, cho đất nước ngày một giàu đẹp hơn. Tình yêu quê hương, đất nước là cội nguồn của những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn mỗi con người. Yêu quê hương đất nước không chỉ là yêu vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của những danh lam thắng cảnh mà còn là tình yêu, niềm tự hào với nền văn hoá, văn hiến, với lịch sử hào hùng của dân tộc. Chúng ta có quyền tự hào về những chiến công vang dội trong quá khứ, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ gìn bản sắc dân tộc suốt mấy nghìn năm lịch sử. Là một người con Việt Nam, ghi nhớ lời Bác Hồ dạy “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Vì vậy mỗi chúng ta phải biết trân trọng những hy sinh lớn lao ấy, trân trọng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng một đất nước Việt Nam ngày một giàu đẹp sánh vai với các cường quốc trên trường quốc tế.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay