Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 1: Câu chuyện và điểm nhìn trong truyện kể
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 1: Câu chuyện và điểm nhìn trong truyện kể . Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
ÔN TẬP BÀI 1: CÂU CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN KỂ (PHẦN 1)
Câu 1: Hãy trình bày một số hiểu biết của em về văn bản Chí Phèo (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
– Tác giả: Nam Cao
– Thể loại: Truyện ngắn hiện đại
– Truyện ngắn Chí Phèo được xây dựng dựa trên một số nguyên mẫu tại làng Đại Hoàng. Tác phẩm vốn có tên là Cái lò gạch cũ. Năm 1941, khi Nhà xuất bản Đời mới tại Hà Nội in một tập truyện ngắn riêng của Nam Cao, người viết lời tựa cho cuốn sách là nhà văn Lê Văn Trương đã đổi tên tác phẩm này thành Đôi lứa xứng đôi và lấy nó làm tên chung cho cả tập. Khi đưa in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1945), nhà văn đã đặt tên mới cho tác phẩm là Chí Phèo.
– Nội dung: Chí Phèo là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Qua truyện ngắn này, Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cá thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời, khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
Câu 2: Trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nam Cao.
Trả lời:
– Nam Cao (1917 – 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri (có tài liệu chép là Trần Hữu Trí), quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông từng làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trường tư, làm gia sư, viết văn,... Đề tài sáng tác của Nam Cao thường xoay quanh đời sống cơ cực của người nông dân và các bi kịch của tầng lớp trí thức nghèo ở thành thị. Sau Cách mạng, ông tích cực tham gia các hoạt động báo chí, văn nghệ phục vụ cuộc sống mới, thường viết về những chuyển biến trong nhận thức và hành động của nhiều tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Trong một chuyến công tác ở vùng địch tạm chiếm thuộc tỉnh Ninh Bình, Nam Cao rơi vào ổ phục kích của địch và hi sinh.
– Nam Cao khẳng định vị trí trong lịch sử văn học bằng thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Bộ phận sáng của ông được xem là một dấu mốc quan của văn hiện thực chủ nghĩa, giàu tính khái quát triết lí và tinh thần nhân đạo. Ông rất chú trọng diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật, xây dựng các tính cách phức tạp, thực hiện nhiều đột phá trong nghệ thuật tự sự với lối trần thuật phối hợp nhiều điểm nhìn, giọng điệu; với cách kết cấu linh hoạt; cách sử dụng ngôn ngữ sinh động, vừa gần gũi với ngôn ngữ giao tiếp đời thường, vừa giàu suy tưởng. Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Chí Phèo (truyện ngắn, 1941), Giăng sáng (truyện ngắn, 1942), Lão Hạc (truyện ngắn, 1943), Đời thừa (truyện ngắn, 1943), Truyện người hàng xóm (tiểu thuyết, 1944), Sống mòn (tiểu thuyết, 1944), Đôi mắt (truyện ngắn, 1948), Ở rừng (nhật kí, 1947 – 1948),...
Câu 3: Nêu hoàn cảnh ra đời “Chí Phèo”
Trả lời:
- Trên cơ sở người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng quê mình, Nam Cao đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng. - Trên cơ sở người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng quê mình, Nam Cao đã hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với tất cả sự ngột ngạt, tối tăm cùng những bi kịch đau đớn, kinh hoàng.
- Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong xã hội ấy không làm cho những người dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát sống tốt đẹp, lương thiện. - Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong xã hội ấy không làm cho những người dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát sống tốt đẹp, lương thiện.
- Tác phẩm được viết năm 1941. - Tác phẩm được viết năm 1941.
Câu 4: Nêu bố cục “Chí Phèo”
Trả lời:
- Phần 1 (Từ đầu đến …cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
- Phần 2 (Tiếp theo đến …không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.
- Phần 3 (Còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.
Câu 5: Dưới đây là một trích đoạn trong cuộc trò chuyện giữa phóng viên và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
– Chị thích điều gì nhất ở con người?
– Chà, câu hỏi này mênh mông ghê. Tôi thích nụ cười nở trên gương mặt của một con người có tấm lòng nhân hậu. Nhiêu đó đủ rồi.
Đặc điểm nổi bật nào của ngôn ngữ nói được thể hiện trong đoạn trích?
Trả lời:
– Trong câu trả lời của Nguyễn Ngọc Tư, có những phương tiện ngôn ngữ đặc trưng của ngôn ngữ nói, đó là các từ cảm thán như “chà”, “ghê” hay từ địa phương như “nhiêu”.
Câu 6: Cho đoạn trích sau:
Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vắng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
Đặc điểm của ngôn ngữ viết được thể hiện như thế nào trong đoạn trích trên?
Trả lời:
– Trong đoạn văn trên, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất dụng công trong việc trau chuốt từ ngữ và cấu trúc câu để gợi ra một không khí truyện cổ xưa, trang trọng, chuẩn bị cho một sự kiện đặc biệt sắp xảy đến. Câu văn dài, nhịp điệu chậm rãi, có những cách diễn đạt khá cầu kì: “Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt”, “Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương”, “Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Các chi tiết về ánh sáng, bóng tối, âm thanh hô ứng với nhau, như một cảnh trong phim.
Câu 7: Phân tích các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết trong đoạn trích sau:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. [...]
Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Trả lời:
Đặc điểm của ngôn ngữ viết trong đoạn trích:
– Sử dụng từ chọn lọc, không mang tính khẩu ngữ nhằm hướng tới tái hiện cảnh ngày đói.
– Có những câu dài, nhiều thành phần nhưng được tổ chức mạch lạc, chặt chẽ.
– Cấu trúc câu đảm bảo quy tắc ngữ pháp. Đoạn trích đảm bảo yêu cầu về mặt hình thức.
Câu 8: Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ nói được ghi lại trong đoạn trích sau:
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy! Thị cong cớn:
– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.
Trả lời:
Để phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích, cần chú ý: – Các từ hồ gọi trong lời nhân vật: Kìa; Này, ... ơi; ... nhỉ,..
– Các từ tình thái trong lời nhân vật: Có khối... đấy, đấy, Thật đấy,...
– Các kết cấu câu trong ngôn ngữ nói: Có... thì, Đã... thì...
– Các từ ngữ thường dùng trong ngôn ngữ nói: mấy (giò), có khối, nói khoác, sợ gì, đằng ấy,...
– Sự phối hợp giữa lời nói và cử chỉ: cười như nắc nẻ, cong cớn, liếc mắt, cười tít,...
Câu 9: Hãy khái quát về giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trả lời:
– Để xã hội tồn tại và phát triển, con người cần phải giao tiếp.
– Con người có thể giao tiếp bằng nhiều loại phương tiện khác nhau (điệu bộ, kí hiệu, hình vẽ, âm nhạc, v.v.). Trong đó, ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.
– Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong những hoạt động cơ bản của con người. Hoạt động này bao gồm hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản. Tạo lập văn bản chính là nói hoặc viết để truyền đạt thông tin. Lĩnh hội văn bản chính là nghe hoặc đọc để tiếp nhận thông tin.
– Có thể thấy trong văn bản có hai loại thông tin chính: thông tin miêu tả và thông tin liên cá nhân. Thông tin miêu tả là những thông tin về một đối tượng, một thế giới nào đó, hiện thực hoặc tưởng tượng. Còn thông tin liền cá nhân là những thông tin thể hiện quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp, được thể hiện kèm theo thông tin miêu tả. Trong giao tiếp, hai loại thông tin này đều quan trọng. Tuy nhiên, tuỳ theo tình huống giao tiếp cụ thể mà loại thông tin này hoặc loại thông tin kia có thể trội hơn, đóng vai trò chính. Chẳng hạn, đối với một bản tin dự báo thời tiết thì thông tin miêu tả là quan trọng, nhưng đối với câu chuyện giữa hai người mới quen nhau ở bến đợi xe buýt thì thông tin liên cá nhân thường quan trọng hơn, trong trường hợp này, người ta nói về thời tiết, về sự kiện A, sự kiện B,... có thể cốt chỉ để thể hiện một sự quan tâm đến nhau, muốn gây thiện cảm với nhau.
Câu 10: “Vợ nhặt” có thể chia bố cục mấy phần?
Trả lời:
- Tác phẩm có thể chia làm năm phần: - Tác phẩm có thể chia làm năm phần:
+ Phần 1: Từ đầu "Cái đói đã tràn đến xóm này [...]" đến câu "Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ [...] ấy thế mà thành vợ thành chồng...". Phần này nói về việc Tràng dẫn thị về nhà trong khung cảnh ngày đói. + Phần 1: Từ đầu "Cái đói đã tràn đến xóm này [...]" đến câu "Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ [...] ấy thế mà thành vợ thành chồng...". Phần này nói về việc Tràng dẫn thị về nhà trong khung cảnh ngày đói.
+ Phần 2: Tiếp theo đến "đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...". Phần này nói về câu chuyện nhặt vợ của Tràng. + Phần 2: Tiếp theo đến "đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...". Phần này nói về câu chuyện nhặt vợ của Tràng.
+ Phần 3: Tiếp theo đến hết + Phần 3: Tiếp theo đến hết Lược một đoạn. Phần này nói về cuộc gặp gỡ giữa cụ Tứ và nàng dâu mới.
+ Phần 4: Tiếp theo đến "Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Phần này nói về sự thay đổi của nhà Tràng trong buổi sáng hôm sau và bữa cơm ngày đói. + Phần 4: Tiếp theo đến "Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người". Phần này nói về sự thay đổi của nhà Tràng trong buổi sáng hôm sau và bữa cơm ngày đói.
+ Phần 5: Tiếp theo đến hết. Phần này nói về chuyện thuế má ngay trong cảnh đói khát và suy nghĩ của Tràng về hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc. + Phần 5: Tiếp theo đến hết. Phần này nói về chuyện thuế má ngay trong cảnh đói khát và suy nghĩ của Tràng về hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc.
Câu 11: Nêu mạch truyện của “Vợ nhặt”
Trả lời:
Mạch truyện: Truyện không đi theo trình tự thời gian thông thường mà có chút thay đổi về trật tự. Các cảnh được miêu tả trong truyện đều được xuất phát từ tình huống anh Tràng lấy được vợ giữa những ngày đói khủng khiếp nhưng tác phẩm lại mở đầu bằng cảnh: Tràng đưa người “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ. Việc tác giả đưa phần 2 lên trước làm tăng sức hấp dẫn của truyện và thể hiện ý đồ nhấn mạnh vào câu chuyện “vợ nhặt” của tác giả. Việc Tràng có vợ giữa những ngày đói cùng cực khiến cho mọi người cảm thấy khó hiểu và bản thân anh cũng không ngờ đến. Đó là một câu chuyện đặc biệt, không ai nghĩ tới.
Câu 12: Dựa vào nội dung truyện “Vợ nhặt”, giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, anh (chị) hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945?
Trả lời:
– Nhan đề Vợ nhặt đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Đây không phải là cảnh lấy vợ đàng hoàng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, mà là “nhặt được vợ”.
– Chỉ riêng hai chữ “vợ nhặt” cũng đã nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng và cả của người đàn bà xa lạ nữa. Đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ. Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ rúng đến như vậy. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Câu 13: Em biết gì về nạn đói năm Ất Dậu (1945) xảy ra ở Việt Nam?
Trả lời:
Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói lớn xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người dân chết đói. Đây là nạn đói lịch sử, là một cơn ác mộng và nỗi nhức nhối khó quên. Năm 1945, Việt Nam chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính vì những chính sách vơ vét thóc gạo của hai kẻ thù này và đặc biệt là phát xít Nhật cùng với ảnh hưởng của thiên tai, mất mùa, người dân Việt Nam đã phải chịu đựng nạn đói khủng khiếp kéo dài từ tháng 10/1944 đến năm 1945 với trên 2 triệu đồng bào chết trong nạn đói.
Câu 14: Theo bạn, có phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống ( như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,....) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng hay không? Vì sao?
Trả lời:
- Không phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,…) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng. - Không phải lúc nào nghịch cảnh trong đời sống (như nạn đói, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh,…) cũng chỉ đẩy con người vào tình thế bi quan, tuyệt vọng.
- Bởi vì chính trong những nghịch cảnh đời sống ấy giúp con người có động lực để vượt qua khó khăn, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng, phó mặc cho số phận, nhiều người đã tự tìm kiếm cơ hội cho mình từ trong chính hoàn cảnh bất hạnh đó. Họ nhìn thấy niềm tin, hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, biến nó thành động lực để bản thân cố gắng, vượt lên trên nghịch cảnh, kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đây là một trong những phẩm chất đáng quý nhất của con người: luôn kiếm tìm cơ hội trong nghịch cảnh và không đầu hàng trước số phận khổ đau. - Bởi vì chính trong những nghịch cảnh đời sống ấy giúp con người có động lực để vượt qua khó khăn, hướng tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng, phó mặc cho số phận, nhiều người đã tự tìm kiếm cơ hội cho mình từ trong chính hoàn cảnh bất hạnh đó. Họ nhìn thấy niềm tin, hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, biến nó thành động lực để bản thân cố gắng, vượt lên trên nghịch cảnh, kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đây là một trong những phẩm chất đáng quý nhất của con người: luôn kiếm tìm cơ hội trong nghịch cảnh và không đầu hàng trước số phận khổ đau.
Câu 15: Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong hai đoạn trích dưới đây:
- a. Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra túc ấy hẳn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ địa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mật lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- b. Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tống, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí tưởng. những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xia chực tăng công với chồng:
- a. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:
- b. Đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích:
Câu 17: Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng (lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ)?
Trả lời:
– Trong truyện ngắn Vợ nhặt, niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua nhân vật Tràng. Lúc đầu, khi có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà, không phải Tràng không có chút phân vân, do dự: “Mới đầu anh chàng cũng chọn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng sau một thoáng do dự, hắn đã tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!” rồi đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Cái quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ này, đã cụ thể hoá ý đồ nghệ thuật của Kim Lân khi viết Vợ nhặt: “...Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người".
– Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc niềm khát khao hạnh phúc gia đình của nhân vật Tràng. Sự kiện bất ngờ nhặt được vợ làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng. Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng như đã thành một con người khác: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, người đàn bà càng thêm “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”, còn Tràng “lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Nhưng chính Tràng cũng không khỏi có lúc “cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà”. Kim Lân đã diễn tả vừa cụ thể, vừa sinh động niềm khao khát tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.
– Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thực sự thấy cuộc đời mình từ đây đã thay đổi hẳn. Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”; chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, con người ta bỗng thấy mình trưởng thành. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức về bổn phận, trách nhiệm: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Câu 18: Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Qua đó, anh (chị) hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?
Trả lời:
– Bà cụ Tứ là nhân vật được xây dựng dụng công nhất trong tác phẩm, thể hiện chiều sâu tư tưởng, gửi gắm thông điệp về tình yêu thương con người. Đó là hình ảnh của người mẹ già nghèo khổ, bất hạnh nhưng cũng là một người mẹ giàu tình yêu thương. Tâm trạng tinh tế, phức tạp của bà cụ Tứ sau khi Tràng có vợ được Kim Lân miêu tả hết sức sinh động, khéo léo. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo lắng, phấp phỏng, đến những day dứt, băn khoăn rồi xót thương, chua chát và cuối cùng là vui vẻ chấp nhận,... tất cả đã thể hiện tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Ngạc nhiên là tâm trạng đầu tiên, cũng là phản ứng tất yếu của một người mẹ quen sống lầm lũi, neo đơn. Với bà, việc Tràng dẫn người đàn bà về nhà là một việc bất thường, khác lạ, gây ra sự ngỡ ngàng, bất ngờ, đẩy bà vào thế bị động. Tràng lấy vợ là một việc trọng đại, bà ngạc nhiên bởi sự thay đổi lớn trong gia đình. Tác giả đã diễn tả sự ngạc nhiên của bà cụ quả một loại những câu hỏi mà bà tự đặt ra cho mình. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu nghi ngờ, lạ lẫm. Nhưng nỗi khổ sở, sự nghèo đói thường nhật đã thấm quá sâu vào tâm can bà, khiến bà đón nhận tin vui của con trong một sự nín lặng. Hình như bà cũng chẳng biết nên vui hay nên buồn, nên cười hay nên khóc. Nỗi tủi phận, thương tâm đến sâu thẳm của số phận con người đã được Kim Lân dồn tụ trong sự câm lặng của một bà cụ. Bà phải kìm nén bao nhiêu tâm sự của mình để chọn một trạng thái duy nhất. Nghệ thuật độc thoại nội tâm được sử dụng khá thành công, sau giây phút im lặng ấy, bà hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Những câu văn được viết từ nước mắt xót đau của tác giả, lời than của bà cụ là lời than của mọi kiếp người khốn khổ trong xã hội. Bao nhiêu quan niệm về bổn phận, trách nhiệm của một người mẹ được đánh thức trong và. Bà cảm thấy mình có tội với con, những câu bà tự nhủ giống như lời tự thú đau đớn của con người. Cái đói, cái nghèo kéo ghì số kiếp con người, làm con người phải quần lưng, oằn xuống để gánh trả nó, nhưng đó vẫn là món nợ đeo đẳng, riền miên suốt cả một đời.
– Sau khi hiểu ra cơ sự, khi có thời gian để ngẫm về cuộc đời mình, bà mới khóc. Giọt nước mắt rỉ xuống trong kẽ mắt kèm nhèm là giọt nước mắt tủi thân, tủi phận khi bà ý thức sâu sắc về cuộc đời khốn khổ của mình. Giọt nước mắt trào ra như muốn diễn tả bao nhiêu day dứt, tức tưởi, dằn vặt, lo lắng của con người. Đó là hệ quả tất yếu của sự kìm nén, nín lặng trong ai oán, xót thương ở trên, đó là những giọt nước mắt của cuộc đời tủi nhục, đau đớn. Bà quay lại nhìn người đàn bà con mình ấy làm vợ, từ tình thương cho con trai bà chuyển sang tình thương cho con dâu. Đó là sự gặp gỡ, đồng cảm trong tâm hồn những người phụ nữ bất hạnh, bà Tứ không chỉ ý thức được nỗi khổ của đời mình, của con mình mà còn biết cảm thông với nỗi khổ của người đàn bà tội nghiệp kia. Dường như có một mối dây liên hệ kì diệu giữa tâm hồn những người phụ nữ đồng cảm, trái tim họ cùng đập nhịp đập của những sẻ chia yêu thương, khát khao hạnh phúc. Đến đây, bà thương con trai thì ít mà tội và thương con dâu nhiều hơn. Nước mắt ròng ròng của bà cụ Tứ là nước mắt của sự đồng cảm, nỗi sẻ chia. Dường như bà muốn dùng nước mắt để gột rửa nỗi đau của thân phận mình. Tiếng khóc lúc này là sự giãi bày lòng mình, sự đi tìm những đồng cảm với các con. Cuối cùng, bà chấp nhận câu chuyện Tràng lấy vợ trong sự mừng vui, hạnh phúc, là vẽ ra viễn cảnh tương lai cho các con: ngăn nhà, tàu dọn nhà cửa, chủ động nói chuyện vui, đãi chè khoán,... Những ước mơ, khát vọng là biểu hiện cao nhất của tình yêu con, là nỗi trăn trở xưa nay vẫn chưa được làm tròn. Niềm tin, khát vọng, sự sống vẫn được thắp sáng trong tâm hồn con người dù già nua, dù đã muốn gần đất xa trời. Đây chính là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của Kim Lân, là cái đẹp của chủ nghĩa nhân văn, là triết lí tình thương vượt lên mọi đau khổ. Món chè khoán ngon trong tình yêu thương nhưng vẫn thấy nghẹn chát cái dư vị của đói nghèo, thể hiện niềm vui ám ảnh, tội nghiệp, nhỏ nhoi của con người. Hình ảnh, tâm trạng bà cụ Tứ thể hiện chiều sâu tư tưởng của Kim Lân, là nhân vật điển hình của bà mẹ Việt Nam khốn khó, bất hạnh nhưng giàu yêu thương, nhân ái.
Câu 19: Qua văn bản, hãy nêu ra những điểm chính trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân.
Trả lời:
Nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân thể hiện qua các phương diện:
– Có sự sáng tạo trong cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn
– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên mà hấp dẫn. Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị, chặt chẽ. Kim Lân đã khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
– Đối thoại sinh động, hấp dẫn, làm rõ tâm lí của từng nhân vật.
– Miêu tả tâm lí tinh tế.
– Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng do đó tạo được sức gợi đáng kể.
Câu 20: Nêu giá trị nội dung “Chí phèo”
Trả lời:
Giá trị nội dung
- Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
- Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính
- Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc
Câu 21: Nêu giá trị nghệ thuật “Chí Phèo”
Trả lời:
Giá trị nghệ thuật
- Tác phẩm thể hiện khả năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật miêu tả sinh động, sắc sảo mà vẫn liên kết chặt chẽ; ngôn ngữ biểu cảm độc đáo.
Câu 22: Hãy cho biết giá trị nhân bản của văn bản Vợ nhặt.
Trả lời:
– Miêu tả cảnh nhặt vợ diễn ra âm thầm, buồn tủi, thiên truyện ngắn này đã làm nổi bật số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng. Lấy vợ, lấy chồng là một sự kiện vui mừng lớn lao trong đời mỗi con người, nhưng trong trường hợp của Tràng, niềm vui đó diễn ra dưới sự rập rình đe doạ của cái nghèo, cái đói.
– Song, giá trị nhân bản của Vợ nhặt không chỉ nằm ở lời kết tội đanh thép giặc Pháp và Nhật. Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, khao khát tổ ấm gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và vẫn không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hi vọng. Người đàn bà đói rách sở dĩ tự nguyện theo không Tràng, một phần vì tìm thấy ở anh một cử chỉ hào hiệp: sẵn lòng cho một người xa lạ một miếng ăn giữa lúc người chết đói như ngả rạ. Và chính Tràng cũng không ngờ người đàn bà lại theo mình một cách dễ dàng như vậy. “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chọn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng đã đánh đổi tất cả để có được một người vợ, có được hạnh phúc. Cái quyết định có vẻ liều lĩnh ấy nói lên rằng, từ trong sâu thẳm của tiềm thức, con người vẫn khao khát hạnh phúc, bất chấp sự đe doạ của cái đói, cái chết. Niềm khao khát đầy tính nhân bản ấy là trường tồn, là bất diệt, và chính nhờ nó mà con người mãi mãi tồn tại trên cõi đời này.
Câu 23: Hãy trình bày nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của tác giả Kim Lân.
Trả lời:
– Tình huống độc đáo của truyện được bộc lộ ngay trong nhan đề: Vợ nhặt. Một thứ vợ do nhặt được, nhặt một cách ngẫu nhiên (chứ không phải vợ cưới). Đây là một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Trong lúc mọi người đang đói quay quắt, lo nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại còn dám “đèo bòng”. Một anh nông dân xấu trai, nghèo xác nghèo xơ, lại là dân ngụ cư (bị khinh bỉ), bỗng nhiên có vợ theo về. Không quen biết, cũng chẳng cần đến ăn hỏi, cheo cưới, chỉ cần có mấy lời tầm phào và vài bát bánh đúc mà có vợ. Cái giá của một con người thật là rẻ rúng.
– Tình huống nói trên của truyện đã làm nổi bật một sự thật thê thảm của người nông dân trước Cách mạng. Đó là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cái sự thực bi thảm đó hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh từ đầu đến cuối tác phẩm. Nhà văn Kim Lân, bằng tài năng của mình, đã miêu tả nạn đói có một không hai trong lịch sử dân tộc bằng những chi tiết cụ thể, chân thật, giàu ý nghĩa nghệ thuật.
– Cái đói đã tràn vào xóm chợ của những người ngụ cư tự lúc nào, làm đảo lộn cảnh sinh hoạt của xóm nhỏ tồi tàn ấy. Kim Lân đã dựng nên một bức tranh ảm đạm bao trùm lên xóm ngụ cư. Không còn tiếng trẻ con trêu đùa làm cho cái xóm chợ xôn xao lên vào lúc chạng vạng mặt người mỗi buổi chiều khi Tràng đi làm về. Thay vào đó là hình ảnh lũ trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích”. Và trên con đường “khẳng khiu” luồn qua xóm chợ vào trong bến, Tràng cũng không còn vừa đi vừa tủm tỉm cười nữa mà đi “từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẫn chúi về đằng trước”. Bao quát hơn, nhà văn đã miêu tả những kẻ đói khát, những người hành khất từ những vùng Nam Định, Thái Bình “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Một không khí chết chóc thê thảm bao trùm lên xóm chợ: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Kim Lân cứ từ tốn, lặng lẽ miêu tả, vậy mà những dòng chữ của ông có sức tố cáo mãnh liệt. Tội ác tày trời ấy chính là do giặc Pháp, giặc Nhật, một mặt thi nhau vơ vét thóc gạo, mặt khác lại bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh.
– Nạn đói khủng khiếp năm 1945, qua ngòi bút Kim Lân, còn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và số phận của mỗi con người. Cái đói đã đẩy những người dân lao động bình thường, cực chẳng đã, phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình. Người đàn bà là vợ theo của Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chua xót hơn nữa, chuyện tỏ tình giờ đây chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện sà vào miếng ăn:
“– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
– Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
– Chỉ có bốn bát bánh đúc mà theo không một anh chàng xấu trai, gặp tầm phơ tầm phào ở giữa đường. Chỉ có hai hào dầu thắp tối chuẩn bị cho đêm tân hôn mà đã được gọi là “sang”, là “hoang” phí lắm lắm. Ngay cả đến bữa cơm đầu tiên sau ngày có nàng dâu cũng thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. “Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẫn”. Cực chẳng đã, bà mẹ chồng đành phải thết nàng dâu cái món cháo cám mà bà gọi là “chè khoán”. “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”.
– Người đàn bà đói khát bỗng dưng có nơi nương tựa, và Tràng bỗng nhiên mà có vợ – trong cảnh ngộ cụ thể của họ – là một niềm vui, niềm hạnh phúc. Thế nhưng, cái đói và cái chết vẫn bám riết, đe doạ niềm vui và niềm hạnh phúc quá đỗi mong manh của vợ chồng Tràng. Không khí thê lương, ảm đạm, chết chóc như vẫn bao phủ căn nhà tuềnh toàng của họ: “Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. “Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Và “trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ”.
– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện tài tình của tác giả đã tạo nên giá trị nhân bản cho truyện ngắn.
Câu 24: Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết thể hiện trong đoạn trích sau:
Ở đây phải chú ý ba khâu:
Một là phải giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta (tôi không muốn dùng chữ “từ vựng”).
Hai là nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta (tôi muốn thay chữ “ngữ pháp”).
Ba là giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn nghệ, chính trị, khoa học, kĩ thuật...).
Trả lời:
Để phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết trong đoạn trích, cần chú ý:
– Thuật ngữ của các ngành khoa học: vốn chữ, từ vựng, ngữ pháp, bản sắc, phong cách, thể văn, văn nghệ, chính trị, khoa học,...
– Việc tách dòng sau mỗi câu để trình bày rõ từng luận điểm.
– Việc dùng các từ ngữ chỉ thứ tự trình bày (Một là, Hai là, Ba là,...) để đánh dấu các luận điểm.
– Việc dùng dấu câu: dấu chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngoặc kép,...
Câu 25: Đoạn văn viết sau đây tái hiện ngôn ngữ nói của một cuộc hội thoại. Hãy chỉ ra những đặc điểm của ngôn ngữ nói.
Chị Chiến lại nói, giọng còn rành rọt hơn cả hồi nãy:
– Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng Út cũng học ở đây. Mầy chịu không?
Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:
– Sao không chịu?
– Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học, nghen?
– Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tôi chịu hết.
Trả lời:
- Muốn phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn hội thoại này, cần dựa vào một số tiêu chí như: sự đổi vai nói – nghe giữa hai nhân vật Chiến và Việt; sự thay thế các lượt lời; sự phối hợp giữa lời nói với giọng điệu, cử chỉ ( - Muốn phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn hội thoại này, cần dựa vào một số tiêu chí như: sự đổi vai nói – nghe giữa hai nhân vật Chiến và Việt; sự thay thế các lượt lời; sự phối hợp giữa lời nói với giọng điệu, cử chỉ (giọng còn rành rọt, chụp một con đom đóm,...); việc dùng nhiều từ khẩu ngữ kể cả từ địa phương (con nít, mầy, nghen) ; dùng hình thức hỏi – đáp, câu hỏi,...
Câu 26: Phân tích lỗi và chữa lại các câu dưới đây cho phù hợp với ngôn ngữ viết.
a) Trong thơ ca Việt Nam thì đã có nhiều bức tranh mùa thu đẹp hết ý.
b) Còn như máy móc, thiết bị do nước ngoài đưa vào góp vốn thì không được kiểm soát, họ sẵn sàng khai vống lên đến mức vô tội vạ.
c) Cá, rùa, ba ba, ếch nhái, chim ở gần nước thì như cò, vạc, vịt, ngỗng... thì cả ốc, tôm, cua,... chúng chẳng chừa ai sắt.
Trả lời:
a) Bỏ các từ thì, đã; thay hết ý bằng từ khác chỉ mức độ như rất.
b) Thay vống lên bằng quá mức thực tế, thay đến mức vô tội vạ bằng một cách tuỳ tiện và bỏ từ như.
c) Câu văn tối nghĩa: cần bỏ các từ khẩu ngữ như sất và viết lại câu.
Câu 27: Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”.
Với những hiểu biết về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, em hãy phát biểu ý kiến của mình về quan điểm nghệ thuật nói trên của nhà văn.
Trả lời:
– Ý kiến nêu trên khẳng định yêu cầu hết sức quan trọng đối với tác phẩm văn chương, nói rộng ra là đối với tác phẩm nghệ thuật. Người nghệ sĩ là phải sáng tạo, phát hiện ra cái mới.
– Đây là ý kiến hoàn toàn đúng, phản ánh bản chất của nghệ thuật, được nhiều người khẳng định theo những cách diễn đạt khác nhau. ("Mỗi tác phẩm phải là một phát hiện về hình thức, một khám phá về nội dung" – Lê-ô-nít Lê-ô-nốp.) Ở đây, Nam Cao đã diễn đạt một cách ngắn gọn, hàm súc và giàu hình ảnh.
Câu 28: Phân tích nỗi đau của Chí Phèo khi bị từ chối quyền làm người. Em đánh giá như thế nào về tính chất điển hình của nhân vật này?
Trả lời:
Khi giải bài tập này, với yêu cầu thứ nhất, cần lưu ý:
– Nỗi đau của Chí Phèo gắn liền với bi kịch trong cuộc đời nhân vật: bi kịch bị tha hoá và bi kịch bị từ chối quyền làm người; tất nhiên, chỉ từ khi tỉnh rượu, ý thức được bi kịch, Chí Phèo mới cảm thấy đau đớn.
– Phân tích một số chi tiết cụ thể trực tiếp bộc lộ nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Chí Phèo khi biết mình bị thị Nở từ chối và "không thể làm người lương thiện" được nữa (ví dụ: "Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn cứ ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Rồi lại uống”; hoặc: "Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không!... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!...".
– Nỗi đau tột cùng vừa cho thấy sự bi đát trong số phận, vừa cho thấy niềm khát khao lương thiện cháy bỏng của Chí Phèo, đồng thời cũng cho thấy cái nhìn hiện thực mang tính phát hiện và chiều sâu trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.
Với yêu cầu thứ hai, cần lưu ý:
– Đưa ra lời giải thích ngắn gọn về khái niệm "điển hình" (cần nhấn mạnh yêu cầu thống nhất giữa tính riêng độc đáo với tính chung, tính tiêu biểu của một điển hình văn học).
– Phân tích, đánh giá những phẩm chất nghệ thuật của hình tượng Chí Phèo. (Có thể khẳng định: Chí Phèo là một điển hình, kết hợp hài hoà, sinh động giữa tính riêng và tính chung).
Câu 29: Tác giả đã xây dựng nên một hình ảnh làng Vũ Đại như thế nào?
Trả lời:
– Toàn bộ truyện Chí Phèo diễn ra ở làng Vũ Đại. Đây chính là không gian nghệ thuật của tác phẩm. Làng này dân "không quá hai nghìn, xa phủ, xa tỉnh". Và đặc biệt là có tôn ti trật tự thật nghiêm ngặt, cao nhất là cụ tiên chỉ bá Kiến "bốn đời làm tổng lí", uy thế nghiêng trời. Rồi đến đám cường hào, chúng kết thành bè cánh, mỗi cánh kết bè đảng xung quanh một người: cánh cụ bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông tư Đạm, cánh ông bát Tùng,... như một đàn cá tranh mồi. Sau nữa là những người nông dân thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức. Và lại còn một hạng dưới đáy cùng hơn cả dân cùng, sống tăm tối như thú vật. Đấy là Năm Thọ, binh Chức, Chí Phèo. Đám cường hào một mặt ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau, cho nhau "ăn bùn" (chẳng hạn, bá Kiến đã dùng tên đầu bò Chí Phèo để trị đội Tảo, đến khi bá Kiến bị đâm chết, thì bọn kì hào mừng rỡ nhìn lí Cường bằng con mắt thoả mãn và khiêu khích); mặt khác, chúng "đu lại với nhau" để bóc lột, ức hiếp nông dân. Ở làng Vũ Đại này, những nông dân hiền lành chỉ è cổ làm để nuôi bọn lí hào. Nếu không họ đành bỏ làng mà đi, chấp nhận kiếp sống chui lủi, kiểu như Năm Thọ.
è Như vậy, chỉ qua một số chi tiết được chọn lọc kĩ lưỡng, sắp đặt rải rác tưởng chừng như ngẫu nhiên trong tác phẩm, Nam Cao đã có thể dụng nên một làng Vũ Đại sống động, hết sức ngột ngạt, đen tối. Nam Cao đã làm nổi bật mối xung đột giai cấp âm thầm mà quyết liệt ở nông thôn. Đấy chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Câu 30: Hãy phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo.
Trả lời:
– Nạn nhân đau khổ nhất, tiêu biểu nhất ở làng Vũ Đại, nói rộng ra là ở xã hội thối nát đương thời, là Chí Phèo. Đây là nhân vật chính hội tụ những giá trị đặc sắc của tác phẩm.
– Trước hết, cần phải thấy Chí Phèo không những điển hình cho một bộ phận cố nông bị lưu manh hoá như một số người đã nhận xét mà ý nghĩa khái quát của nhân vật này còn rộng lớn hơn nhiều. Cuộc đời và số phận của Chí Phèo thể hiện một quy luật có tính phổ biến trong xã hội cũ là quy luật bần cùng hoá, rồi đi đến lưu manh hoá không chỉ ở một tầng lớp nhân dân.
– Nam Cao không phải là nhà văn viết về nhân vật bị lưu manh hoá đầu tiên trong văn học. Nhưng ông là người đặt ra vấn đề con người tha hoá một cách ám ảnh và sâu sắc nhất mà truyện Chí Phèo được coi là một thành tựu đột xuất.
– Có thể chia cuộc đời Chí Phèo làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: từ lúc Chí ra đời tới lúc bị đẩy vào tù. Giai đoạn hai: từ khi Chí Phèo ra tù tới khi gặp thị Nở. Giai đoạn ba: từ khi bị thị Nở khước từ tình yêu tới khi Chí đậm bá Kiến và tự sát.
+ Giai đoạn thứ nhất của cuộc đời Chí Phèo chỉ được nhà văn nói lướt qua bằng mấy câu ở đầu tác phẩm. Mãi đến cuối truyện mới có một số chi tiết như là ngẫu nhiên kể tạt ngang về đoạn đời ngày xưa của Chí. Tuy vậy, vẫn đủ giúp người đọc nắm được lai lịch của nhân vật này. Dẫu có hoàn cảnh riêng khá độc đáo, nhưng xét đến cùng, Chí là một nông dân lương thiện như nhiều nông dân khác. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện, yên ổn. + Giai đoạn thứ nhất của cuộc đời Chí Phèo chỉ được nhà văn nói lướt qua bằng mấy câu ở đầu tác phẩm. Mãi đến cuối truyện mới có một số chi tiết như là ngẫu nhiên kể tạt ngang về đoạn đời ngày xưa của Chí. Tuy vậy, vẫn đủ giúp người đọc nắm được lai lịch của nhân vật này. Dẫu có hoàn cảnh riêng khá độc đáo, nhưng xét đến cùng, Chí là một nông dân lương thiện như nhiều nông dân khác. Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện, yên ổn.
+ Giai đoạn thứ hai của cuộc đời Chí Phèo: Chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên này vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7, 8 năm đã biến một nông dân khoẻ mạnh, lương thiện và tự trọng thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Từ đây, dễ nhận thấy nhất là + Giai đoạn thứ hai của cuộc đời Chí Phèo: Chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên này vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7, 8 năm đã biến một nông dân khoẻ mạnh, lương thiện và tự trọng thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Từ đây, dễ nhận thấy nhất là Chí đã bị cướp mất hình hài của con người. Đi tù về, hắn trở thành một người khác hẳn trước đây, "trông gớm chết”: "Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cong cong, hai mắt gườm gườm [...]. Cái ngục phanh, đầy những nét chạm trổ". Không những thế, tính cách Chí cũng đã khác hẳn. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa. Bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, ăn vạ, đập phá, đâm chém,... Chính vì thế, Chí thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại".
– Mở đầu truyện là một hình ảnh đầy ấn tượng: Chí Phèo vừa đi vừa chửi. Lạ ở chỗ Chí chửi, nhưng không có người nghe chửi. Hắn chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại. Thế mà vẫn không ai lên tiếng; Chí đành "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn". Sau khi chửi hết đối tượng này đến đối tượng khác, mà chẳng có ai phản ứng gì, hắn đành chửi chính "đứa chết mẹ nào" đẻ ra mình. Có người cho rằng hắn chửi vì say rượu. Thực ra, trong con người Chí, cái say, cái tỉnh luôn song song tồn tại. Việc chửi bới của Chí chính là phản ứng của y với toàn bộ cuộc đời. Nó bộc lộ tâm trạng bất mãn của một con người ít nhiều ý thức được mình đã bị xã hội phi nhân tính gạt ra khỏi thế giới loài người. Nhưng tiếng chửi của Chí thật thảm hại vì cũng chỉ là một trong vô vàn âm thanh trong vũ trụ. Khi mất quyền làm người thì dù Chí chửi hay khóc, cười hay nói, uống rượu hay kêu làng, phỏng có khác gì nhau? Chí Phèo thích kêu làng. Thông thường kêu làng là một hiệu lệnh cực kì khẩn cấp để có được sự chú ý và trợ giúp của mọi người. Nhưng trường hợp Chí thì khác, cho dù hắn kêu làng "như một người bị đâm" thì giỏi lắm cũng chỉ làm cho thị Nở kinh ngạc còn cả làng "cũng không ai ra điều", đáp lại lời hắn "chỉ có ba con chó dữ". Những chi tiết này thật đơn giản, nhưng Nam Cao nói với người đọc rất nhiều về kiếp sống cô độc của người nông dân bị tha hoá, không còn được làm người.
– Điều đáng nói nữa, tuy vốn là nông dân lương thiện, nhưng khi đã bị biến thành quỷ dữ thì những kẻ như Chí Phèo rất dễ bị bọn thống trị lợi dụng. Từ chỗ hung hãng xách vỏ chai đến nhà bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi, Chí Phèo đã trở thành tay sai của bá Kiến. Đồng thời, Chí cũng nhanh chóng trở thành kẻ mù quáng gây tai hoạ cho những nông dân lương thiện khác.
è Như vậy, từ một nông dân hiền lành và tự trọng, xã hội tàn bạo mà đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân đã biến Chí thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại" cả về hình hài lẫn tâm tính. Và vì Chí đã thành quỷ dữ cho nên dân làng Vũ Đại – nơi Chí sinh ra và cưu mang Chí – không thừa nhận và khai trừ Chí ra khỏi cộng đồng. Từ đây, Chí sống tăm tối như thú vật, xa lạ với mọi người, với xã hội loài người. Do đó, nỗi đau đớn nhất ở Chí Phèo chính là nỗi đau của một con người bị tàn phá về thể xác, bị huỷ diệt về tâm hồn, bị xã hội cự tuyệt không cho làm người, chứ không chỉ là nỗi đau vì đói cơm rách áo, không nhà cửa, không nơi nương tựa,... như một số nhân vật trong các tác phẩm văn học hiện thực khác. Sức mạnh tố cáo, giá trị hiện thực mới mẻ, độc đáo của tác phẩm chính là ở chỗ đó.
– Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật trong xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức ở nông thôn trước Cách mạng. Vì bị đè nén, áp bức quá đáng, người lao động lương thiện không còn cách nào khác đã buộc phải chống trả bằng cách lưu manh hoá. Có thể nói, Nam Cao là nhà văn đã chăm chú theo dõi và luôn bị ám ảnh bởi hiện tượng này. Trong không ít tác phẩm, Nam Cao đã xây dựng những nhân vật vốn hiền lành trở thành ngang ngược. Đấy là Trạch Văn Đoành trong Đôi móng giò, là cu Lộ trong Tư cách mõ, là Đức trong Nửa đêm,... Và trong Chí Phèo, ngoài Chí lại còn có hai "bậc tiền bối" là Năm Thọ và binh Chức. Và Chí hoàn toàn có thể có kẻ tiếp nối. Đấy là thông điệp Nam Cao muốn gửi đến người đọc qua các nhân vật Năm Thọ, binh Chức và đặc biệt là qua chi tiết khi nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhớ lại những lúc chung sống với hắn rồi nhìn nhanh xuống bụng và đột nhiên "thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua...". Như vậy, rõ ràng khi bọn địa chủ cường hào, và nói rộng ra là cái trật tự tàn bạo đương thời, còn ra sức áp bức, bóc lột thậm tệ, không cho con người được sống hiền lành tử tế, thì sẽ còn những dân lành bị đẩy vào con đường lưu manh. "Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ đã vạch ra thật hùng hồn cái quy luật tàn bạo, bi thảm đó trong xã hội đương thời”.
– Nhưng giá trị độc đáo của tác phẩm không chỉ ở đó. Viết về trường hợp nông dân bị lưu manh hoá, với tư cách là cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo, bằng cách đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con người khốn khổ, ngay khi tưởng như họ đã bị xã hội tàn ác cướp mất cả hình người và tính người.
+ Giai đoạn thứ ba của cuộc đời Chí Phèo được thể hiện tập trung qua mối tình giữa nhân vật này và thị Nở. + Giai đoạn thứ ba của cuộc đời Chí Phèo được thể hiện tập trung qua mối tình giữa nhân vật này và thị Nở.
– Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng không, bằng tài năng, nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách thật
tự nhiên.
– Chí Phèo bất ngờ gặp thị Nở... Thế rồi nửa đêm, Chí đau bụng nôn mửa, thị Nở dìu hắn vào trong lều.
– Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi "trời sáng đã lâu". Và kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say, hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Và lần đầu tiên, Chí nghe thấy những
âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh: "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá" và Chí còn nghe rõ cuộc trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải ở Nam Định về. "Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...”; vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sống.
– Vậy, điều gì đã làm cho con người triền miên trong con say, sáng nay lại hoàn toàn tỉnh táo? Vì cuộc gặp gỡ với thị Nở, điều ấy đã rõ nhưng chưa đủ. Nam Cao là cây bút hiện thực có chiều sâu, mỗi sự thay đổi của nhân vật đều được lí giải một cách thuyết phục. Ở đây, không thể bỏ qua vai trò của trận ốm. Trận ốm đã góp phần làm "thay đổi hắn về sinh lí cũng thay đổi cả tâm lí nữa".
– Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày "rất xa xôi", "hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Mộng ước của Chí Phèo thật bé nhỏ, giản dị, nhưng suốt bao năm nó chưa trở thành hiện thực. Đấy là quá khứ, còn hiện tại? Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già, "đã tới cái dốc bên kia của đời", "cơ thể đã hư hỏng nhiều", thế mà hắn vẫn đang "cô độc". Còn tương lai? Tương lai lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh: "đói rét và ốm đau, và cô độc". Đối với Chí Phèo, cô độc "còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau".
– Từ khi đi tù về, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say vô tận". Vì thế, hắn sống như vô thức. Giờ đây, lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ, nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
– Đúng lúc Chí Phèo đang "vẩn vơ nghĩ mãi" thì thị Nở mang "nồi cháo hành còn nóng nguyên" vào. Việc làm này của thị khiến hắn hết sức "ngạc nhiên" và xúc động đến mức trào nước mắt. Bởi vì một lẽ đơn giản, đây là lần thứ nhất trên đời "hắn được một người đàn bà cho". Hắn thấy cháo hành của thị Nở thơm ngon lạ lùng: "Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm". Thì ra, đối với Chí Phèo, bát cháo hành của thị Nở không chỉ là bát cháo hành bình thường, mà trong đó hàm chứa cả tình yêu thương chân thành thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí có được.
– Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa. Như vậy, một lần nữa chứng tỏ Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới gặp cơ hội được thể hiện.
– Vậy vì đâu bản tính này được thể hiện? Là cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao giải thích điều ấy một cách thuyết phục:
* Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, có bản tính tốt đẹp. Xã hội tàn ác (đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân) dẫu có ra sức huỷ diệt bản tính ấy, nhưng
nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi con người này tưởng chừng đã bị biến thành quỷ dữ.
* Khi gặp thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc, chân thành của thị (lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm), bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí Phèo sống đúng với con người thật của mình.
– Chí Phèo mong nhờ thị Nở mà hoà nhập với mọi người, chấm dứt đoạn đời thú vật để sống đúng với kiếp người.
– Nhưng, sự mong ước được sống lương thiện của Chí Phèo một lần nữa lại không thành hiện thực. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn. Bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà "đâm đầu" đi lấy thằng Chí Phèo — "con quỷ dữ của làng Vũ Đại" – bấy lâu nay "chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ". Mặc dù, nghe những lời bà cô mắng, thị Nở thấy "lộn ruột" (tức là thấy vô lí, uất ức), nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ "trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô". Điều này khiến Chí "ngẩn người" vì thất vọng, nhưng lúc này, có lẽ hắn chưa đến nỗi tuyệt vọng. "Hắn lại như hít thấy hơi cháo hành". Khi thị ra về, "hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay". Như vậy, chứng tỏ Chí khao khát tình yêu, thiết tha đến với thị Nở – đến với cuộc đời lương thiện – biết chừng nào.
– Khi thấy không có cách gì níu giữ được thị Nở, tình yêu đã bị tan vỡ, Chí Phèo rơi vào tình thế tuyệt vọng. Với bi kịch tinh thần của con người sinh ra là người, nhưng lại không được làm người, Chí vật vã, đau đớn. Tuyệt vọng nên hắn lại uống rượu. Nhưng thật lạ, hôm nay hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". Nói cho chính xác hơn là tuy say, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn, nhân vật này vẫn ý thức rất rõ về nỗi đau thân phận. Vì thế, "hắn ôm mặt khóc rưng rức" và cứ "thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Chi tiết này được nhà văn nhắc đi nhắc lại nhằm tô đậm niềm khát khao tình yêu thương và nhất là bi kịch tinh thần của Chí. Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Đến nhà bá Kiến, Chí trợn mắt, chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này và đòi "làm người lương thiện", đòi bộ mặt lành lặn. Như vậy, Chí đã hành động như một người tỉnh táo với những suy nghĩ sâu sắc. Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù và kết liễu cuộc đời mình. Hành động của Chí vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Mặc dù trước đó, dường như Chí không định đến nhà bá Kiến; nhưng việc đến nhà bá Kiến rõ ràng không phải là việc làm thiếu suy nghĩ. Thực ra, Chí hiểu khá rõ về con người bá Kiến. Đâu phải vô cớ, vừa mới đi tù về Chí đã xách vỏ chai đến nhà cụ bá rạch mặt ăn vạ? Đâu phải vô cớ, thỉnh thoảng hắn lại ngật ngưỡng đến đó để "đòi nợ”? Tuy làm tay sai cho bá Kiến, nhưng ngọn lửa hờn căm vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo. Đặc biệt nó càng bùng lên dữ dội khi anh ta đã thức tỉnh, hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình. Do đó, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bùng cháy.
– Cái chết của Chí Phèo cũng là tất yếu. Việc Chí Phèo tự sát cũng không phải là hành động mù quáng do hơi men mang đến. Trước hết, đấy là một bi kịch. Chí đã thức tỉnh, tức là anh ta không thể đập phá, chém giết như trước được nữa. Chí muốn lương thiện, nhưng ai cho hắn lương thiện? Kẻ thù của Chí đâu phải chỉ có một mình bá Kiến mà là cả cái xã hội thối nát và ác độc đương thời. Bởi vậy, Chí Phèo tất yếu phải tìm đến cái chết. Chỉ có cái chết mới giúp cho Chí Phèo thoát khỏi kiếp sống của con quỷ dữ. Trước đây, để tồn tại Chí Phèo phải bán bộ mặt người, linh hồn người cho quỷ dữ. Đến nay, khi linh hồn đã trở về, Chí Phèo phải đổi cả sự sống của mình. Như vậy, rõ ràng đối với Chí Phèo, niềm khao khát được sống lương thiện cao hơn cả tính mạng. Vì vậy, cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mãnh liệt cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người nông dân lương thiện vào con đường bần cùng hoá, lưu manh hoá mà còn đẩy họ vào chỗ chết.
– Qua kết cục bi thảm của Chí Phèo, người đọc có thể nhận thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của nhà văn Nam Cao: Tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam là hết sức gay gắt, và nó chỉ có thể được giải quyết bằng những biện pháp quyết liệt.
è Như vậy, qua đoạn văn này, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo độc đáo, mới mẻ: Phát hiện, miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi tưởng như họ đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác biến thành thú dữ. Điều này đã tạo nên giá trị đặc sắc cho đoạn trích nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm Chí Phèo nói chung.