Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 2: Câu từ và hình ảnh trong thơ trữ tình (P2)
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 2: Câu từ và hình ảnh trong thơ trữ tình. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
ÔN TẬP BÀI 2. CẤU TỨ VÀ HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRỮ TÌNH
(PHẦN 2)
Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian trong bài thơ Tràng Giang có gì đáng chú ý?
Trả lời:
- - Tràng giang khắc hoạ một không gian rộng lớn. Đó là không gian của dòng sông sóng nước mênh mang như đang chảy về vô tận, rồi từ chiều dọc không gian mở ra theo chiều ngang, lan toả đôi bờ. Chiều thứ ba của không gian vũ trụ mở ra với bầu trời sâu chót vót. Cả ba chiều của không gian đều không có giới hạn, tất cả thấm sâu nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn cô đơn của nhà thơ.
- - Tràng giang của đất trời, tràng giang của tâm tưởng nhà thơ không những trôi xuôi theo dòng nước mà còn trôi theo dòng thời gian từ hiện tại về quá khứ xa xôi. Rồi từ dòng sông thời tiền sử, nhà thơ lại trở về hiện tại để tìm điểm tựa tinh thần ở quê hương đất nước.
- Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở - Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật ở Tràng giang đã góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Câu 2: Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?
Trả lời:
- Đề từ tuy nằm ngoài văn bản của tác phẩm, nhưng tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài - Đề từ tuy nằm ngoài văn bản của tác phẩm, nhưng tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài Tràng giang: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” là một ví dụ tiêu biểu. Tuy chỉ bằng một câu thơ bảy chữ, nhưng đề từ này đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của toàn bộ tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng tức là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).
- Có thể nói, - Có thể nói, Tràng giang đã triển khai một cách tập trung cảm hứng nêu ở câu thơ đề từ.
Câu 3: Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.
Trả lời:
- Toàn bài thơ mang âm điệu trầm buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/3, đôi chỗ là 4/3 hoặc 2/5,... - Toàn bài thơ mang âm điệu trầm buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/3, đôi chỗ là 4/3 hoặc 2/5,...
- Đọc chậm và diễn cảm sẽ thấy nhịp thơ đó chất chứa nỗi buồn sầu mênh mang. Thanh điệu chủ yếu theo kiểu thất ngôn cổ điển. - Đọc chậm và diễn cảm sẽ thấy nhịp thơ đó chất chứa nỗi buồn sầu mênh mang. Thanh điệu chủ yếu theo kiểu thất ngôn cổ điển.
- Với sự luân phiên BB / TT / TBB – TT / BB / BTT, nhưng lại có biến thái qua việc sử dụng nhiều từ láy, sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người. - Với sự luân phiên BB / TT / TBB – TT / BB / BTT, nhưng lại có biến thái qua việc sử dụng nhiều từ láy, sự lặp lại đều đặn tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người.
Câu 4: Trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Alexander Pushkin.
Trả lời:
- Alexander Sergeyevich Pushkin (1799 – 1837) là người đặt nền móng cho văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX. Sinh ra trong một gia đình trí thức quý tộc lâu đời, Pushkin sớm bộc lộ thiên hướng văn chương, bắt đầu sáng tác thơ văn từ khi lên bảy, tám tuổi. Pushkin đã tổng hoà được những gì tinh tuý nhất của văn hoá dân tộc, nhân loại và thời đại để trở thành “người duy nhất nói tiếng nói mới” – tiếng nói “toàn nhân loại” trong văn học Nga thế kỉ XIX (Fedor Dostoievsky). Vì những vần thơ ca ngợi tự do, chống lại chế độ nông nô chuyên chế của chính quyền Nga hoàng, Pushkin bị đày xuống Phương Nam (1820 – 1823), rồi lại bị đày ngược lên một trang trại hẻo lánh ở Phương Bắc (1824 – 1826). Đến giữa năm 1826, Pushkin mới được mãn hạn đi đày. Ông qua đời năm 1837, sau một cuộc đấu súng. - Alexander Sergeyevich Pushkin (1799 – 1837) là người đặt nền móng cho văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX. Sinh ra trong một gia đình trí thức quý tộc lâu đời, Pushkin sớm bộc lộ thiên hướng văn chương, bắt đầu sáng tác thơ văn từ khi lên bảy, tám tuổi. Pushkin đã tổng hoà được những gì tinh tuý nhất của văn hoá dân tộc, nhân loại và thời đại để trở thành “người duy nhất nói tiếng nói mới” – tiếng nói “toàn nhân loại” trong văn học Nga thế kỉ XIX (Fedor Dostoievsky). Vì những vần thơ ca ngợi tự do, chống lại chế độ nông nô chuyên chế của chính quyền Nga hoàng, Pushkin bị đày xuống Phương Nam (1820 – 1823), rồi lại bị đày ngược lên một trang trại hẻo lánh ở Phương Bắc (1824 – 1826). Đến giữa năm 1826, Pushkin mới được mãn hạn đi đày. Ông qua đời năm 1837, sau một cuộc đấu súng.
- Pushkin đã để lại một di sản vô giá ở nhiều thể loại văn học, song trước hết ông được xem là “mặt trời của thi ca Nga”, có cống hiến lớn nhất trong thơ trữ tình với hơn 800 bài thơ đặc sắc. Ngôn từ trong thơ trữ tình của Pushkin bao giờ cũng chính xác, giản dị, trong sáng, hàm súc. Những sắc màu, hình ảnh, âm thanh trong thơ của ông không chỉ thể hiện tâm trạng mà còn chuyên chở những vận động ý thức của nhân vật trữ tình, hướng tới hoá giải những khúc mắc trong lòng người để cuối cùng đạt tới một xúc cảm cân bằng, hài hoà đến kì lạ. Thơ Pushkin tràn ngập tinh thần nhân văn, vừa cao cả, vừa trần thế, vì vậy mà có sức lay động tâm hồn mãnh liệt đối với người đọc mọi dân tộc, mọi thời đại - Pushkin đã để lại một di sản vô giá ở nhiều thể loại văn học, song trước hết ông được xem là “mặt trời của thi ca Nga”, có cống hiến lớn nhất trong thơ trữ tình với hơn 800 bài thơ đặc sắc. Ngôn từ trong thơ trữ tình của Pushkin bao giờ cũng chính xác, giản dị, trong sáng, hàm súc. Những sắc màu, hình ảnh, âm thanh trong thơ của ông không chỉ thể hiện tâm trạng mà còn chuyên chở những vận động ý thức của nhân vật trữ tình, hướng tới hoá giải những khúc mắc trong lòng người để cuối cùng đạt tới một xúc cảm cân bằng, hài hoà đến kì lạ. Thơ Pushkin tràn ngập tinh thần nhân văn, vừa cao cả, vừa trần thế, vì vậy mà có sức lay động tâm hồn mãnh liệt đối với người đọc mọi dân tộc, mọi thời đại
Câu 5: Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Con đường mùa đông.
Trả lời:
- Tháng 12 năm 1825, một cuộc khởi nghĩa do đông đảo những người trí thức quý tộc tiến bộ lãnh đạo chống lại chế độ nông nô chuyên chế đã nổ ra rộng khắp trên nước Nga. Đầu năm 1826, cuộc khởi nghĩa bị Nga hoàng dập tắt. Vào mùa đông năm ấy, nỗi buồn riêng của nhà thơ ở nơi đày ải, nỗi buồn chung của nhân dân sau thất bại của cuộc khởi nghĩa, cùng ý chí và khát vọng vượt qua những giây phút tủi buồn trong hành trình cuộc sống riêng tư, cũng như của dân tộc, đã trở thành nguồn cảm hứng để Pushkin sáng tác nên bài thơ - Tháng 12 năm 1825, một cuộc khởi nghĩa do đông đảo những người trí thức quý tộc tiến bộ lãnh đạo chống lại chế độ nông nô chuyên chế đã nổ ra rộng khắp trên nước Nga. Đầu năm 1826, cuộc khởi nghĩa bị Nga hoàng dập tắt. Vào mùa đông năm ấy, nỗi buồn riêng của nhà thơ ở nơi đày ải, nỗi buồn chung của nhân dân sau thất bại của cuộc khởi nghĩa, cùng ý chí và khát vọng vượt qua những giây phút tủi buồn trong hành trình cuộc sống riêng tư, cũng như của dân tộc, đã trở thành nguồn cảm hứng để Pushkin sáng tác nên bài thơ Con đường mùa đông.
Câu 6: Xác định những hình ảnh, hoạt động tương phản trong khổ thơ 4 của Con đường mùa đông. Nhân vật trữ tình xuất hiện ở khổ thơ này có còn chìm trong cảnh vật u buồn nữa không? Vì sao?
Trả lời:
Những hình ảnh, hoạt động tương phản trong khổ 4:
- Hình ảnh: mái lều – rừng, lửa – tuyết - Hình ảnh: mái lều – rừng, lửa – tuyết
- Hoạt động: sừng sững chào ta - Hoạt động: sừng sững chào ta
→ Dường như nhân vật trữ tình đang dần thoát ly ra khỏi nỗi buồn của mình, nỗi buồn đã vơi đi hẳn và ông bắt đầu nhận ra được cảnh vật xung quanh. Lều chỉ một không gian chật hẹp, bị giới hạn đối lập với hình ảnh rừng bao la đã để lại trong ta nhiều cảm xúc. Phải chăng mái lều giống như tâm trạng của nhân vật, đang bị bó hẹp, siết chặt khiến con người chìm đắm trong đau buồn, còn rừng gợi lên một không gian bao la, rộng lớn, tượng trưng cho một tinh thần cởi mở, rũ bỏ những thứ tầm thường, nghĩ về một tương lai tốt đẹp hơn. Hay hình ảnh “chào ta” như một kết quả của quá trình. Nhân vật trữ tình đã nhìn cảnh vật bằng một con mắt khác với suy nghĩ tích cực. Công cuộc đấu tranh tư tưởng đã đến hồi kết, con người đã vượt qua nỗi buồn, tẻ nhạt của một người độc hành, nhìn thấy ánh sáng trong niềm hy vọng.
Câu 7: Xác định không gian, thời gian tâm tưởng của nhân vật trữ tình trong hai khổ thơ 5 – 6 của Con đường mùa đông . Hãy hình dung nhân vật trữ tình được tận hưởng những gì và tiếp tục đấu tranh với nỗi buồn ra sao.
Trả lời:
- Không gian: trốn cũ của tác giả, nơi ông sống khi chưa bị lưu đày - Không gian: trốn cũ của tác giả, nơi ông sống khi chưa bị lưu đày
- Thời gian: buổi tối mùa đông bên lò lửa - Thời gian: buổi tối mùa đông bên lò lửa
→ Cuộc đấu tranh nội tâm đã đưa tác giả về với những tháng ngày hạnh phúc, nơi ông được sống hạnh phúc bên người mình yêu, được trò chuyện và ngắm người con gái ấy. Đó chính là niềm hạnh phúc, khát khao cháy bỏng mà tác giả muốn có được, muốn lần nữa được trải nghiệm, cảm nhận. Nhưng khi nhìn vào hiện thực phũ phàng, nỗi buồn lại bao trùm lấy tâm trạng của nhân vật bởi ông biết những ngày tháng đấy đã qua đi và không thể trở lại.
Câu 8: Phân tích hình ảnh tác giả - nhân vật trữ tình hiện lên trong đoạn cuối bài thơ Nhớ đồng qua sự nhớ lại, mô tả, ý thức của chính tác giả.
Trả lời:
- Trong tù, tác giả, nhân vật trữ tình nhớ lại chính mình trong đoạn đời vừa qua: từng bế tắc trong việc xác định hướng đi cho cuộc đời, luôn muốn vượt thoát vòng quanh quẩn, cuối cùng bắt gặp lí tưởng trong niềm hạnh phúc vô bờ,... Quả là tác giả – nhân vật trữ tình ý thức được rất rõ rằng lựa chọn con đường đi cách mạng là một sự lựa chọn có nghĩa đổi đời. - Trong tù, tác giả, nhân vật trữ tình nhớ lại chính mình trong đoạn đời vừa qua: từng bế tắc trong việc xác định hướng đi cho cuộc đời, luôn muốn vượt thoát vòng quanh quẩn, cuối cùng bắt gặp lí tưởng trong niềm hạnh phúc vô bờ,... Quả là tác giả – nhân vật trữ tình ý thức được rất rõ rằng lựa chọn con đường đi cách mạng là một sự lựa chọn có nghĩa đổi đời.
Câu 9: Hình ảnh con chim cà lợi xuất hiện ở phần sau bài thơ Nhớ đồng có ý nghĩa đặc biệt như thế nào?
Trả lời:
- Sự xuất hiện hình ảnh con chim cà lợi trước hết giúp nhà thơ nói được lòng say mê lí tưởng cùng niềm vui của mình lúc được lí tưởng chắp cánh. Sau đó, hình ảnh này có ý nghĩa như một ám ảnh, nhắc người tù không nguôi nhớ tới cảnh tự do ở bên ngoài. Thêm nữa, nó giúp nhà thơ quy hồi tất cả những nỗi nhớ nhung, xúc động vào một mối thống nhất. - Sự xuất hiện hình ảnh con chim cà lợi trước hết giúp nhà thơ nói được lòng say mê lí tưởng cùng niềm vui của mình lúc được lí tưởng chắp cánh. Sau đó, hình ảnh này có ý nghĩa như một ám ảnh, nhắc người tù không nguôi nhớ tới cảnh tự do ở bên ngoài. Thêm nữa, nó giúp nhà thơ quy hồi tất cả những nỗi nhớ nhung, xúc động vào một mối thống nhất.
Câu 10: Hệ thống hình ảnh trong bài thơ Nhớ đồng đã biểu đạt được những nội dung gì? Bạn hiểu và đánh giá như thế nào về cách tác giả đan cài, phối hợp, sắp xếp các cụm hình ảnh?
Trả lời:
Hệ thống hình ảnh trong bài thơ đã biểu đạt được những nội dung:
- Bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ: gió cồn, đất, ruồng tre, ô mạ, nương khoai sắn, con đường, xóm nhà. - Bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ: gió cồn, đất, ruồng tre, ô mạ, nương khoai sắn, con đường, xóm nhà.
- Hình ảnh người nông dân và công việc của họ: “lưng cong xuống luống cày”, bùn, bàn tay, vãi giống, lúa, … - Hình ảnh người nông dân và công việc của họ: “lưng cong xuống luống cày”, bùn, bàn tay, vãi giống, lúa, …
- Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất - Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất
- Hình ảnh nhớ lại ngày xưa chưa được giác ngộ lí tưởng cách mạng và ngày nay đã được nhưng lại bị chốn lao tù kìm chế, tác giả mơ về một ngày nào đó được ra ngoài. - Hình ảnh nhớ lại ngày xưa chưa được giác ngộ lí tưởng cách mạng và ngày nay đã được nhưng lại bị chốn lao tù kìm chế, tác giả mơ về một ngày nào đó được ra ngoài.
=> Tác giả đã đi từ không gian cảnh vật quê hương rồi đến con người, gia đình, sau cùng là hiện tại. Nói như vậy cũng không hoàn toàn đúng vì đây chỉ là những hình ảnh chủ đạo còn ở mọi phần của bài thơ đều có không gian hay những thứ liên quan đến quê hương. Ví dụ ở khổ 9, khi nói về những “hồn thân tự thuở xưa”, tác giả đã liên kết với các hình ảnh về mưa gió, đất, khoai sắn. => Cách triển khai của tác giả đã liên tục tái hiện lên nỗi nhớ da diết về quê hương tươi đẹp, yêu dấu, giúp cho khao khát thoát khỏi nhà giam trở nên càng ý nghĩa hơn.
Câu 11: Từ “đâu” xuất hiện bao nhiêu lần và đóng vai trò gì trong cấu tứ của bài thơ Nhớ đồng?
Trả lời:
- Cấu tứ của bài thơ này là kiểu từ một tác động nào đó của hiện tại, nhân vật trữ tình tràn đầy trong tâm trí nỗi nhớ thương da diết về thuở xưa tươi đẹp để rồi từ đó quay trở lại hiện thực phũ phàng của thực tại. Chính vì thế, từ “đâu”, xuất hiện rất nhiều lần trong bài thơ, góp phần tái hiện mạnh mẽ, sâu sắc cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Từ “đâu” không đặt ở cuối mà được đặt lên đầu nhằm nhấn mạnh thêm cho nỗi nhớ đó. - Cấu tứ của bài thơ này là kiểu từ một tác động nào đó của hiện tại, nhân vật trữ tình tràn đầy trong tâm trí nỗi nhớ thương da diết về thuở xưa tươi đẹp để rồi từ đó quay trở lại hiện thực phũ phàng của thực tại. Chính vì thế, từ “đâu”, xuất hiện rất nhiều lần trong bài thơ, góp phần tái hiện mạnh mẽ, sâu sắc cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Từ “đâu” không đặt ở cuối mà được đặt lên đầu nhằm nhấn mạnh thêm cho nỗi nhớ đó.
Câu 12: Nêu nhận xét về âm hưởng bao trùm của bài thơ. Hãy chỉ ra một vài yếu tố ngôn ngữ có chức năng tạo nên âm hưởng đó.
Trả lời:
- Âm hưởng bao trùm cả bài thơ là âm hưởng buồn thương day dứt. Những từ thương nhớ, hiu quạnh được nhắc đi, nhắc lại có tác dụng tô đậm điều đó. Điệp từ đâu cũng liên tục vang lên, thể hiện sự cố gắng lục tìm trong kí ức và nỗi nhớ quặn lòng của nhân vật trữ tình đối với những cảnh, những người quen thân bây giờ đã thuộc về một thế giới khác. - Âm hưởng bao trùm cả bài thơ là âm hưởng buồn thương day dứt. Những từ thương nhớ, hiu quạnh được nhắc đi, nhắc lại có tác dụng tô đậm điều đó. Điệp từ đâu cũng liên tục vang lên, thể hiện sự cố gắng lục tìm trong kí ức và nỗi nhớ quặn lòng của nhân vật trữ tình đối với những cảnh, những người quen thân bây giờ đã thuộc về một thế giới khác.
Câu 13: Để nhận ra những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học, ta cần phải có kiến thức và kĩ năng gì?
Trả lời:
- Để nhận ra những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học, phải nắm vững những quy ước ngôn ngữ có tính chuẩn mực của tiếng Việt, đồng thời biết thực hiện việc đối chiếu, so sánh các phương án sử dụng ngôn ngữ khác nhau. - Để nhận ra những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học, phải nắm vững những quy ước ngôn ngữ có tính chuẩn mực của tiếng Việt, đồng thời biết thực hiện việc đối chiếu, so sánh các phương án sử dụng ngôn ngữ khác nhau.
Câu 14: Hãy nêu một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học và cho ví dụ.
Trả lời:
Một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học:
- Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm “lạ hoá” đối tượng được nói tới. Ví dụ: - Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm “lạ hoá” đối tượng được nói tới. Ví dụ:
+ Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều + Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
+ Thêm yêu Hà Nội vắng đầy cả em. + Thêm yêu Hà Nội vắng đầy cả em.
- Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện. Ví dụ: - Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện. Ví dụ:
+ Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc + Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
+ Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái + Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
- Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề cập. Ví dụ: - Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề cập. Ví dụ:
+ Vừa thoáng tiếng còi tàu / Lòng đã Nam đã Bắc + Vừa thoáng tiếng còi tàu / Lòng đã Nam đã Bắc
+ Cột đèn rớm điện / Là chiều Bích Câu + Cột đèn rớm điện / Là chiều Bích Câu
- Bổ sung chức năng mới cho dấu câu (khi trình bày văn bản trên giấy). Ví dụ: - Bổ sung chức năng mới cho dấu câu (khi trình bày văn bản trên giấy). Ví dụ:
+ Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ / Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya + Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ / Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya
+ + Non xanh ngây cả buồn chiều
- Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia. - Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Câu 15: Chỉ ra hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các trường hợp sau:
a) Dù ai nói ngả nói nghiêng / Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
b) Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa.
c) Năm nay, ta lại nhớ bốn câu thơ của Bác Hồ, vừa rất thơ, vừa rất thép.
d) Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Trả lời:
a) Tách rời các tiếng trong từ: Dù ai nói ngả nói nghiêng / Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
b) Kết hợp từ bất bình thường: Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa.
c) Chuyển từ loại: Năm nay, ta lại nhớ bốn câu thơ của Bác Hồ, vừa rất thơ, vừa rất thép.
d) Thay đổi trật tự từ trong cụm từ: Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu 16: Hãy phân tích khổ thơ thứ ba Tràng giang
Trả lời:
- Vẫn trong mạch cảm xúc được gọi ra từ hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước như cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng về sự chia li tan tác được lấy lại một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. “Không một chuyến đò” và cũng không có lấy một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên ( - Vẫn trong mạch cảm xúc được gọi ra từ hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước như cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ này; ấn tượng về sự chia li tan tác được lấy lại một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. “Không một chuyến đò” và cũng không có lấy một cây cầu, nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang vu. Vì thế, nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời.
- Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra điều này còn có thể nhận thấy ở khổ hai ( - Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra điều này còn có thể nhận thấy ở khổ hai (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều) và ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà), nhưng có lẽ rõ nhất vẫn là ở khổ thứ ba này. Bởi vậy có thể nói, thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu của bài thơ.
Câu 17: Hãy phân tích khổ thơ thứ tư Tràng giang
Trả lời:
- Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và vẫn thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận. Ở đây, thiên nhiên tuy buồn nhưng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những đám mây đó, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc. Lấy lại ý thơ của người xưa (Đỗ Phủ), hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập: đối lập giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn. - Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và vẫn thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận. Ở đây, thiên nhiên tuy buồn nhưng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những đám mây đó, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc. Lấy lại ý thơ của người xưa (Đỗ Phủ), hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” tạo được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập: đối lập giữa cánh chim đơn độc, nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn.
Câu 18: Nêu nhận xét về những hình tượng thơ được điểm lại trong khổ thơ cuối. Hãy chia sẻ suy nghĩ của bạn về cách lấy lại cảm giác bình yên trên những “con đường mùa đông” trong cuộc đời.
Trả lời:
- Những hình tượng thơ được điểm lại ở khổ thơ cuối là sự tổng hợp lại những hình tượng quen thuộc đã xuất hiện trong những khổ thơ trên của tác giả. Đó là Nhi-na, là bác xà ích, là nhạc ngựa và làn sương lạnh giá. Tất cả đều được tái hiện lại ở khổ cuối nhưng dường như đã mang theo một tâm trạng khác, một màu sắc khác. - Những hình tượng thơ được điểm lại ở khổ thơ cuối là sự tổng hợp lại những hình tượng quen thuộc đã xuất hiện trong những khổ thơ trên của tác giả. Đó là Nhi-na, là bác xà ích, là nhạc ngựa và làn sương lạnh giá. Tất cả đều được tái hiện lại ở khổ cuối nhưng dường như đã mang theo một tâm trạng khác, một màu sắc khác.
→ Cách lấy lại cảm giác bình yên của tác giả hết sức độc đáo. Từ nỗi buồn chìm đắm, bao trùm lấy tâm trạng, ông dần nhận ra mọi thứ không cần phải như vậy và tâm trạng bắt đầu thay đổi. Ông chui qua lớp vỏ của nỗi buồn, giải phóng tâm trạng của mình, nghĩ về người mình yêu, về những ngày tháng hạnh phúc, ấm áp và hình thành lên khát khao quay lại những ngày tháng bình yên đó. Đây chính là chỗ dựa tinh thần lớn nhất trong ông, dựa vào nó, men theo những dòng suy nghĩ, hồi tưởng của bản thân từ đó hình thành niềm tin, hy vọng vào một tương lai tươi sáng.
Câu 19: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) về một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng mà bạn cho là đặc sắc nhất trong bài thơ Con đường mùa đông.
Trả lời:
Trong bài thơ, hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng mà em thấy đặc sắc nhất đó là hình ảnh Nhi-na. Đây có thể hiểu là tên của người con gái mà tác giả yêu hay chính là một sự vật gắn với quê hương của tác giả - biểu tượng cho những tháng ngày huy hoàng, chìm đắm trong tình yêu, hạnh phúc của tác giả. Hình ảnh này hiện nên không chỉ thể hiện nỗi khát khao về tình yêu mà qua đó tác giả muốn thể hiện nỗi mong nhớ những người thân yêu, mái ấm hạnh phúc, về quê hương tươi đẹp. Mọi thứ đều chỉ còn là dĩ vãng nhưng tác giả đã đặt niềm tin vào nó – niềm tin vào một ngày mai quay về cuộc sống hạnh phúc, ấm no trước kia. Chính những dòng suy nghĩ đó đã giúp tác giả vượt qua nỗi buồn, sự cô đơn và cái rét khắc nghiệt của khí hậu Nga.
Câu 20: Theo bạn, hình ảnh nào trong bài thơ Nhớ đồng mang tính tượng trưng rõ nét hơn cả? Hãy làm rõ tính tượng trưng ở hình ảnh ấy.
Trả lời:
- Hình ảnh mang tính tượng trưng rõ nét hơn cả trong bài thơ là hình ảnh “cánh đồng”. Cánh đồng trong bài thơ tượng trưng cho quê hương, cho không gian rộng lớn tự do bên ngoài nhà giam. Tác giả không phải chỉ nói về cánh đồng mà gợi ra rất nhiều hình ảnh, cảm xúc về quê hương để bổ trợ cho hình tượng cánh đồng đó. - Hình ảnh mang tính tượng trưng rõ nét hơn cả trong bài thơ là hình ảnh “cánh đồng”. Cánh đồng trong bài thơ tượng trưng cho quê hương, cho không gian rộng lớn tự do bên ngoài nhà giam. Tác giả không phải chỉ nói về cánh đồng mà gợi ra rất nhiều hình ảnh, cảm xúc về quê hương để bổ trợ cho hình tượng cánh đồng đó.
Câu 21: Bài thơ Nhớ đồng cho thấy điều gì về tâm trạng, phẩm chất, lí tưởng của nhân vật trữ tình? Nêu cảm nhận của bạn về những cảm xúc, tâm tình được tác giả bộc lộ trong bài thơ.
Trả lời:
- Bài thơ cho thấy tâm trạng buồn mang theo nỗi niềm nhớ quê hương da diết, mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng, nhớ cuộc sống tự do, được cống hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Qua đó, ta thấy được lý tưởng của một người chiến sĩ cách mạng đang sôi sục, chảy sâu trong con người của tác giả. Đó là lý tưởng của một người thanh niên khi đã được giác ngộ, tìm ra chân lý của đời mình, luôn cống hiến hết mình để thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy, phụng sự cho Tổ quốc. Một khát khao cháy bỏng bảo vệ được quê hương, những hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thương. - Bài thơ cho thấy tâm trạng buồn mang theo nỗi niềm nhớ quê hương da diết, mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng, nhớ cuộc sống tự do, được cống hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Qua đó, ta thấy được lý tưởng của một người chiến sĩ cách mạng đang sôi sục, chảy sâu trong con người của tác giả. Đó là lý tưởng của một người thanh niên khi đã được giác ngộ, tìm ra chân lý của đời mình, luôn cống hiến hết mình để thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy, phụng sự cho Tổ quốc. Một khát khao cháy bỏng bảo vệ được quê hương, những hình ảnh rất đỗi bình dị, thân thương.
→ Để từ đó, nổi bật lên trên bài thơ đó là nỗi nhớ da diết của một người con đối với quê hương. Nhớ về cuộc sống tự do như một chú chim được cất cao tiếng hót giữa bầu trời xanh thẳm, được tự do làm điều mình thích. Nghĩ về những ngày tháng tươi đẹp ấy, tác giả thấy buồn man mác bởi hiện thực tàn khốc, chịu đựng cảnh cầm tù không biết tương lai sẽ thế nào. Bởi vậy trong nỗi niềm thương nhớ, khát khao của tác giả, ta vẫn bắt gặp một nỗi buồn man mác, thầm kín.
Câu 22: Nhận diện, phân tích đặc điểm hình thức của bài thơ. Sự lặp đi lặp lại của hai câu thơ đầu (với chút ít biến đổi) hàm chứa những thông tin nghệ thuật gì?
Trả lời:
- Đặc điểm hình thức của bài thơ viết theo thể bảy chữ, chia thành nhiều khổ bốn câu. Giữa những khổ bốn câu thơ ấy là những khổ hai câu có ý tứ, lời lẽ gần giống nhau được đặt xen vào giống như một điệp khúc. Chính điệp khúc này đã làm cho tính chất day dứt của nỗi nhớ tăng lên. Nó vừa có tác dụng nhắc nhà thơ nhớ tới thời điểm hiện tại lại vừa có tác dụng mở ra những khung trời hoài niệm mênh mông, xa vắng. - Đặc điểm hình thức của bài thơ viết theo thể bảy chữ, chia thành nhiều khổ bốn câu. Giữa những khổ bốn câu thơ ấy là những khổ hai câu có ý tứ, lời lẽ gần giống nhau được đặt xen vào giống như một điệp khúc. Chính điệp khúc này đã làm cho tính chất day dứt của nỗi nhớ tăng lên. Nó vừa có tác dụng nhắc nhà thơ nhớ tới thời điểm hiện tại lại vừa có tác dụng mở ra những khung trời hoài niệm mênh mông, xa vắng.
- Hai câu mở đầu được lặp đi lặp lại trong bài: - Hai câu mở đầu được lặp đi lặp lại trong bài:
Xác định số lần lặp của hai câu thơ mở đầu (có chỗ biến đổi chút ít): 4 lần
- Gì sâu bằng những trưa thương nhớ - Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
- Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh - Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
- Gì sâu bằng những trưa thương nhớ - Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
- Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh - Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!
- Phân tích ý nghĩa: - Phân tích ý nghĩa:
+ Về mặt hoàn cảnh trữ tình, nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời mưa (nó chính là “Một giọng hò đưa hố não nùng"), thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Nó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, hiu quạnh của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đương bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. + Về mặt hoàn cảnh trữ tình, nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời mưa (nó chính là “Một giọng hò đưa hố não nùng"), thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Nó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, hiu quạnh của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đương bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
+ Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên như một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu cùng cực, không có gì có thể sánh nổi này! Qua đó người ta thấy được cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và vắng thiếu cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nó là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời. + Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên như một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu cùng cực, không có gì có thể sánh nổi này! Qua đó người ta thấy được cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và vắng thiếu cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nó là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
+ Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại. Trước hết là tác dụng liên kết. Lặp và điệp thường là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch, liền ý. Nhưng, quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại nhiều lần bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp lại tạo ra một nhịp luân hồi triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu. + Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại. Trước hết là tác dụng liên kết. Lặp và điệp thường là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch, liền ý. Nhưng, quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại nhiều lần bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp lại tạo ra một nhịp luân hồi triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Câu 23: Hãy chỉ ra hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong ngữ liệu văn học sau và nêu tác dụng: “Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa”.
Trả lời:
- Hiện tượng đảo trật tự từ ngữ: - Hiện tượng đảo trật tự từ ngữ: ngan ngát hương đưa
- Tác dụng: Nếu so sánh hai cách diễn đạt “hương đưa ngan ngát” (trật tự thông thường) và “ngan ngát hương đưa” (trật tự đã thay đổi), chúng ta sẽ thấy cách diễn đạt thứ hai giàu sức biểu cảm hơn đồng thời cũng giàu nhạc tính hơn. - Tác dụng: Nếu so sánh hai cách diễn đạt “hương đưa ngan ngát” (trật tự thông thường) và “ngan ngát hương đưa” (trật tự đã thay đổi), chúng ta sẽ thấy cách diễn đạt thứ hai giàu sức biểu cảm hơn đồng thời cũng giàu nhạc tính hơn.
Câu 24: Hãy chỉ ra hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong ngữ liệu văn học sau và nêu tác dụng:
“Đàn cò áo trắng
Khiêng nắng
Qua sông”
Trả lời:
- Hiện tượng mở rộng khả năng kết hợp của từ: - Hiện tượng mở rộng khả năng kết hợp của từ: Khiêng nắng
- Tác dụng: Trong đoạn thơ trên, “nắng” được hình dung như một vật thể có hình dạng, khối lượng, có thể khiêng được. Cách kết hợp từ “khiêng nắng” phá vỡ quy tắc kết hợp từ thông thường, tạo ra một ấn tượng đặc biệt cho người đọc. - Tác dụng: Trong đoạn thơ trên, “nắng” được hình dung như một vật thể có hình dạng, khối lượng, có thể khiêng được. Cách kết hợp từ “khiêng nắng” phá vỡ quy tắc kết hợp từ thông thường, tạo ra một ấn tượng đặc biệt cho người đọc.
Câu 25: Hãy chỉ ra hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong ngữ liệu văn học sau và nêu tác dụng:
“Đã có năm nhà nhận bán. Tiền họ đã nhận ngay từ bây giờ. Nhưng vừa mới lúc nãy đây, họ đến bảo không bán thóc nữa, mà lại bỏ tiền. Mà trả có hai mươi. Thế có giết người ta không! Bây giờ tôi đang chết dở đây.”
Trả lời:
- Hiện tượng tách biệt: - Hiện tượng tách biệt: Mà trả có hai mươi.
- Tác dụng: Việc tách thành phần câu thành câu độc lập trong đoạn trích trên có tác dụng nhấn mạnh sự việc “trả có hai mươi”, đồng thời bộc lộ cảm xúc bối rối, lo lắng của nhân vật. - Tác dụng: Việc tách thành phần câu thành câu độc lập trong đoạn trích trên có tác dụng nhấn mạnh sự việc “trả có hai mươi”, đồng thời bộc lộ cảm xúc bối rối, lo lắng của nhân vật.
Câu 26: Vì sao câu thơ cuối Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu?
Trả lời:
- Câu thơ “Không khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài thơ - Câu thơ “Không khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài thơ Lầu Hoàng Hạc. Cùng viết về khói sóng buổi hoàng hôn, cùng gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng lại có sự khác biệt tiêu biểu cho thơ cũ, thơ cổ điển và thơ mới, thơ hiện đại. Thơ cũ tả cảnh ngụ tình, cảnh vật khơi gọi tâm trạng. Thơ mới, thơ của cái tôi nội cảm, không cần mượn tới ngoại cảnh mà vẫn tự biểu hiện với những cung bậc cảm xúc thiết tha.
Câu 27: Hãy tìm hiểu hai chiều không gian – thời gian và mối quan hệ giữa chúng trong bài thơ.
Trả lời:
– Không gian được thể hiện trong bài thơ là khung cảnh tạo vật thiên nhiên với hai sắc thái nổi bật: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh. Còn thời gian trong bài thơ này là chiều muộn ("Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều") đang nghiêng dần về hoàng hôn ("Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa" và "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà").
– Quan hệ giữa hai chiều này thật rõ rệt.
+ Trước hết, là tác động tương hỗ giữa chúng: phải là buổi chiều thì không gian mới phơi lộ hết vẻ hoang sơ cô quạnh. (Nếu là thời điểm khác trong ngày, diện mạo đó của không gian sẽ không còn rõ nét thế nữa). Cả hai phụ hoạ với nhau tạo nên một khung cảnh thật rợn ngợp, gợi buồn sầu đối với con người, nhất là con người đang là kẻ cô lữ. + Trước hết, là tác động tương hỗ giữa chúng: phải là buổi chiều thì không gian mới phơi lộ hết vẻ hoang sơ cô quạnh. (Nếu là thời điểm khác trong ngày, diện mạo đó của không gian sẽ không còn rõ nét thế nữa). Cả hai phụ hoạ với nhau tạo nên một khung cảnh thật rợn ngợp, gợi buồn sầu đối với con người, nhất là con người đang là kẻ cô lữ.
+ Đồng thời, cả không gian và thời gian đều vận động. Sông nước, thuyền, củi, bèo bọt, mây trời, chim chiều, bãi bờ,... đều như đang tiếp nối chảy trôi,... Còn buổi chiều càng lúc càng muộn hơn. Sự vận động vừa hữu hình vừa vô hình này cũng phụ hoạ nhau, hoà điệu với nhau khiến cho diện mạo của cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, hắt hiu, cảm xúc càng lúc càng nặng nề, u ám. + Đồng thời, cả không gian và thời gian đều vận động. Sông nước, thuyền, củi, bèo bọt, mây trời, chim chiều, bãi bờ,... đều như đang tiếp nối chảy trôi,... Còn buổi chiều càng lúc càng muộn hơn. Sự vận động vừa hữu hình vừa vô hình này cũng phụ hoạ nhau, hoà điệu với nhau khiến cho diện mạo của cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, hắt hiu, cảm xúc càng lúc càng nặng nề, u ám.
Câu 28: Những trường hợp nào dưới đây được xem là hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường về từ?
a) Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành.
b) Những là đắp nhớ đổi sầu, / Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
c) Trăng rất trăng là trăng của tình duyên.
d) Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và càng cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già!
e) Có phải duyên nhau thì thắm lại, Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
Trả lời:
a) Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành. (Thay đổi trật tự từ, tỉnh lược)
b) Những là đắp nhớ đổi sầu, / Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
c) Trăng rất trăng là trăng của tình duyên.
d) Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và càng cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già!
e) Có phải duyên nhau thì thắm lại / Đừng xanh như lá, bạc như vôi. (Ở đây tác giả lợi dụng từ đồng âm)
Câu 29: Hãy phân tích bài thơ Nhớ đồng.
Trả lời:
Tham khảo:
Từ ấy (1937–1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lí tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
Nếu như bài Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu hú báo hiệu hè về thì ở bài Nhớ đồng, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.
Tố Hữu là người con của xứ Huế. Từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.
Bài thơ Nhớ đồng phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đổng bào, đồng chí thân thương. Ở Tâm tư trong tù, tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ; còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết. Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hoá đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn. Ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Nỗi nhớ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.
Câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Từ nghi vấn Gì kết hợp với tính từ sâu khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong kí ức nhà thơ.
Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ. Nhiều nhất là hình ảnh của mảnh đất cắt rốn chôn nhau cùng với những người dân quê lao động lam lũ, vất vả trên đồng ruộng:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…
Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu An Cựu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương giang lững lờ trôi. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp xiết bao! Vậy mà giờ đây, quê hương thân yêu chỉ cách có bức tường nhà lao mà sao xa vời vợi?! Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Đâu gió cồn thơm…, Đâu ruộng tre mát…, Đâu từng ô mạ…, Đâu những nương khoai…, Đâu những đường con…, Đâu nhà tranh thấp…? Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.
Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khoẻ khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.
Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!
Điệp từ nghi vấn “đâu” đặt ở đầu câu cùng với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Dường như người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này.
Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai, nhà thơ nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.
Đó là những ngày người thanh niên học sinh yêu nước đang băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, lạc quan, tin tưởng là để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ như chợt bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động. Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời…
Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng, nhớ những bóng hình quen thuộc của quê hương, gia đình, nhớ mẹ già, nhớ những người đã khuất, nhớ những ngày đã qua và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu thơ đầu, tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm, mỗi lúc một lan xa, toả rộng không giới hạn;
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng là động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước.
Câu 30: Phân tích tác dụng nghệ thuật của việc sử dụng luân phiên câu hỏi, câu kể và câu cảm trong văn bản.
Trả lời:
- Việc sử dụng luân phiên câu hỏi, câu kể và câu cảm trong bài thơ tạo nên một dòng cảm xúc liên tục dâng trào, thể hiện nỗi nhớ da diết khắc khoải của tác giả. - Việc sử dụng luân phiên câu hỏi, câu kể và câu cảm trong bài thơ tạo nên một dòng cảm xúc liên tục dâng trào, thể hiện nỗi nhớ da diết khắc khoải của tác giả.
+ Câu hỏi vừa gợi lên những hình ảnh thân thương, vừa bước đầu thể hiện được cảm xúc của tác giả. Câu hỏi: đâu gió cồn …, đâu ruồng tre…, v.v.. + Câu hỏi vừa gợi lên những hình ảnh thân thương, vừa bước đầu thể hiện được cảm xúc của tác giả. Câu hỏi: đâu gió cồn …, đâu ruồng tre…, v.v..
+ Câu kể giúp những nội dung đó thêm chi tiết hơn, cho người đọc thấy quê hương thực đáng thương nhớ. Câu kể: Lúa mềm xao xác ở ven sông, vẳng lên trong tiếng xe lùa nước, v.v.. + Câu kể giúp những nội dung đó thêm chi tiết hơn, cho người đọc thấy quê hương thực đáng thương nhớ. Câu kể: Lúa mềm xao xác ở ven sông, vẳng lên trong tiếng xe lùa nước, v.v..
+ Câu cảm là sự bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của tác giả, qua đó tiếp tục làm nổi bật tình cảm với quê hương của nhà thơ. Câu cảm: Ôi mẹ già …, khoai sắn tình quê …, v.v.. + Câu cảm là sự bộc lộ cảm xúc mãnh liệt của tác giả, qua đó tiếp tục làm nổi bật tình cảm với quê hương của nhà thơ. Câu cảm: Ôi mẹ già …, khoai sắn tình quê …, v.v..