Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 2: Câu từ và hình ảnh trong thơ trữ tình (P1)
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 2: Câu từ và hình ảnh trong thơ trữ tình. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
ÔN TẬP BÀI 2. CẤU TỨ VÀ HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRỮ TÌNH
(PHẦN 1)
Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về bài thơ Tràng Giang (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- Tác giả: Huy Cận - Tác giả: Huy Cận
- Thể loại: Thơ bảy chữ - Thể loại: Thơ bảy chữ
- Bài thơ - Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận trên nhiều phương diện. Cảm hứng sáng tác bài thơ được khơi dậy từ những buổi chiều tác giả tới ngắm cảnh mênh mang của sông Hồng ở vùng Chèm – Vẽ vào mùa thu năm 1939. Trong Suy nghĩ về nghệ thuật (1982), Huy Cận cho biết Tràng giang “lúc sơ khai lại muốn là một bài lục bát và tên nguyên thuỷ của nó là Chiều trên sông”.
- Nội dung: Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một “cái tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. - Nội dung: Qua bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một “cái tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Huy Cận.
Trả lời:
- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, rồi vào Huế học đến hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh. Ông tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau: Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam,... - Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, rồi vào Huế học đến hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh. Ông tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau: Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam,...
- Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Tác phẩm đáng chú ý nhất của Huy Cận trước Cách mạng là - Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Tác phẩm đáng chú ý nhất của Huy Cận trước Cách mạng là Lửa thiêng (tập thơ đầu tay, sáng tác khoảng 1937 – 1940); ngoài ra, ông còn một số tác phẩm khác như Kinh cầu tự (văn xuôi – 1942), Vũ trụ ca (thơ, sáng tác khoảng 1940 – 1942). Hơn mười năm sau Cách mạng, Huy Cận ít có thơ in. Nhưng từ năm 1958, ông sáng tác dồi dào và có nhiều đổi mới, tìm thấy sự hoà điệu giữa con người và xã hội, tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm sáu mươi (1968), Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984), Ta về với biển (1997),...
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại và đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996). - Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại và đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Câu 3: Hãy trình bày những hiểu biết của em về tác giả Tố Hữu và bài thơ Nhớ đồng.
Trả lời:
- Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông từng được tôn vinh là “lá cờ đầu” của nền thơ cách mạng Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. - Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông từng được tôn vinh là “lá cờ đầu” của nền thơ cách mạng Việt Nam nửa sau thế kỉ XX.
- Thơ Tố Hữu là tiếng nói trữ tình nhiệt huyết về những vấn đề lớn của đất nước và cách mạng, mang đậm tính sử thi, tràn đầy niềm tin ở tương lai, tất cả được thể hiện bằng một hình thức thơ giàu tính dân tộc, gần gũi với đại chúng. - Thơ Tố Hữu là tiếng nói trữ tình nhiệt huyết về những vấn đề lớn của đất nước và cách mạng, mang đậm tính sử thi, tràn đầy niềm tin ở tương lai, tất cả được thể hiện bằng một hình thức thơ giàu tính dân tộc, gần gũi với đại chúng.
- Các chặng đường sáng tác của Tố Hữu được đánh dấu bằng 7 tập thơ chính, gắn với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam nửa sau thế kỉ XX: Thơ (1946, từ lần in thứ hai trở đi vào năm 1959, tập thơ mang nhan đề mới là Từ ấy), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (2000). - Các chặng đường sáng tác của Tố Hữu được đánh dấu bằng 7 tập thơ chính, gắn với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam nửa sau thế kỉ XX: Thơ (1946, từ lần in thứ hai trở đi vào năm 1959, tập thơ mang nhan đề mới là Từ ấy), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (2000).
- - Nhớ đồng được viết trong thời gian tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (thuộc Thừa Thiên Huế). Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, bài thơ được đưa vào tập Thơ (tức Từ ấy). Cũng như nhiều bài thơ khác được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh tù đày, Nhớ đồng thể hiện rõ tâm sự của một người thanh niên yêu nước giàu nhiệt huyết, khao khát tự do, nôn nóng muốn trở về sát cánh với đồng chí, đồng bào lúc phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ.
Câu 4: Tình cảm nhớ đồng được thể hiện trong bài thơ có những khía cạnh nổi bật, đáng chú ý nào?
Trả lời:
- Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng quê. Đầu tiên tác giả nhớ về cảnh làng quê bình dị, thân thuộc mà không kém phần thi vị. Tuy nhiên tác giả còn ý thức được những sắc thái tương phản có thực của cảnh đồng quê trong những ngày đất nước sống cảnh nô lệ. Tiếp theo nỗi nhớ đồng là nỗi nhớ người – những con người quê chân chất từng gắn bó thân thiết với tác giả và đặc biệt là người mẹ già xa, đơn chiếc. Trong bài thơ, nhớ đồng bao hàm cả việc tác giả nhớ tới quãng đời hoạt động cách mạng vừa qua của mình với bao nỗi bồi hồi khó tả. - Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ đồng quê. Đầu tiên tác giả nhớ về cảnh làng quê bình dị, thân thuộc mà không kém phần thi vị. Tuy nhiên tác giả còn ý thức được những sắc thái tương phản có thực của cảnh đồng quê trong những ngày đất nước sống cảnh nô lệ. Tiếp theo nỗi nhớ đồng là nỗi nhớ người – những con người quê chân chất từng gắn bó thân thiết với tác giả và đặc biệt là người mẹ già xa, đơn chiếc. Trong bài thơ, nhớ đồng bao hàm cả việc tác giả nhớ tới quãng đời hoạt động cách mạng vừa qua của mình với bao nỗi bồi hồi khó tả.
Câu 5: Có thể hiểu thế nào về từ sâu trong điệp khúc của bài thơ?
Trả lời:
- Từ sâu như đã làm không gian hóa thời gian, bắt một khoảnh khắc thời gian như dừng lại để ta đo được chiều sâu thăm thẳm của nó. Sâu ở đây có nghĩa là chất chứa nỗi niềm, vời vợi nhớ thương. Buổi trưa sâu là buổi trưa đặt con người vào thế đối diện với cõi thâm u của kí ức để được sống thêm trong không gian khác, vượt thoát không gian chật hẹp chốn ngục tù,.... - Từ sâu như đã làm không gian hóa thời gian, bắt một khoảnh khắc thời gian như dừng lại để ta đo được chiều sâu thăm thẳm của nó. Sâu ở đây có nghĩa là chất chứa nỗi niềm, vời vợi nhớ thương. Buổi trưa sâu là buổi trưa đặt con người vào thế đối diện với cõi thâm u của kí ức để được sống thêm trong không gian khác, vượt thoát không gian chật hẹp chốn ngục tù,....
Câu 6: Chỉ ra hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các trường hợp sau:
a) Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, / Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
b) Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam.
c) Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có...
d) Chập tối. Gió ở bến sông Châu thổi quằn quặn.
Trả lời:
a) Thay đổi trật tự từ trong câu: Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, / Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
b) Tỉnh lược thành phần chính của câu: Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam.
c) Tách một bộ phận câu thành câu: Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có...
d) Sử dụng câu đặc biệt: Chập tối. Gió ở bến sông Châu thổi quằn quặn.
Câu 7: Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trong kết hợp từ “buồn điệp điệp” ở câu mở đầu bài thơ Tràng giang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Trả lời:
- Theo cách kết hợp thông thường thì từ “điệp” chỉ kết hợp với từ ngữ về cảnh vật như ta thường thấy trong cụm từ “núi rừng trùng điệp” nhưng ở đây tác giả dùng từ “điệp” để khắc hoạ nỗi buồn, hình thành nên một kết hợp độc đáo, khác lạ. Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường ở đây giúp tác giả miêu tả nỗi buồn tràn ngập của mình và tạo nên sự liên kết về nhạc điệu với “nước song song” ở dòng 2. - Theo cách kết hợp thông thường thì từ “điệp” chỉ kết hợp với từ ngữ về cảnh vật như ta thường thấy trong cụm từ “núi rừng trùng điệp” nhưng ở đây tác giả dùng từ “điệp” để khắc hoạ nỗi buồn, hình thành nên một kết hợp độc đáo, khác lạ. Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường ở đây giúp tác giả miêu tả nỗi buồn tràn ngập của mình và tạo nên sự liên kết về nhạc điệu với “nước song song” ở dòng 2.
Câu 8: Hãy trình bày về khái niệm, đặc điểm cấu tứ trong thơ.
Trả lời:
- Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng. Trong lĩnh vực thơ, cấu tứ gắn liền với việc xác định, hình dung hướng phát triển của hình tượng thơ, cách triển khai bài thơ, sao cho toàn bộ nhận thức, cảm xúc, cảm giác của nhà thơ về một vấn đề, đối tượng, sự việc nào đó có thể được bộc lộ chân thực, tự nhiên, sinh động và trọn vẹn nhất. - Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng. Trong lĩnh vực thơ, cấu tứ gắn liền với việc xác định, hình dung hướng phát triển của hình tượng thơ, cách triển khai bài thơ, sao cho toàn bộ nhận thức, cảm xúc, cảm giác của nhà thơ về một vấn đề, đối tượng, sự việc nào đó có thể được bộc lộ chân thực, tự nhiên, sinh động và trọn vẹn nhất.
- Sản phẩm của hoạt động cấu tứ trong thơ là tứ thơ (thường được gọi đơn giản là tứ). Tứ đưa bài thơ thoát khỏi sơ đồ ý khô khan, trừu tượng để hiện diện như một cơ thể sống. Nhờ có tứ, tổ chức của bài thơ trở nên chặt chẽ, mọi yếu tố cấu tạo đều liên hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một ý tưởng – hình ảnh trung tâm. Mỗi bài thơ thường có một cách cấu tứ và một cái tứ riêng. Chú ý tìm hiểu vấn đề này là điều có ý nghĩa quan trọng trong việc đọc hiểu thơ, nhìn ra những phát hiện độc đáo của nhà thơ về con người, cuộc sống và đánh giá đúng phẩm chất nghệ thuật của bài thơ. - Sản phẩm của hoạt động cấu tứ trong thơ là tứ thơ (thường được gọi đơn giản là tứ). Tứ đưa bài thơ thoát khỏi sơ đồ ý khô khan, trừu tượng để hiện diện như một cơ thể sống. Nhờ có tứ, tổ chức của bài thơ trở nên chặt chẽ, mọi yếu tố cấu tạo đều liên hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một ý tưởng – hình ảnh trung tâm. Mỗi bài thơ thường có một cách cấu tứ và một cái tứ riêng. Chú ý tìm hiểu vấn đề này là điều có ý nghĩa quan trọng trong việc đọc hiểu thơ, nhìn ra những phát hiện độc đáo của nhà thơ về con người, cuộc sống và đánh giá đúng phẩm chất nghệ thuật của bài thơ.
- Vì mối liên hệ nhân quả tất yếu giữa cấu tứ và tứ mà trong nhiều trường hợp, người ta đã đồng nhất hai khái niệm này. Lúc đó, có thể xem “tìm hiểu cấu tứ của bài thơ” và “tìm hiểu tứ thơ của bài thơ” là hai hình thức diễn đạt khác nhau về cùng một ý (nội dung). - Vì mối liên hệ nhân quả tất yếu giữa cấu tứ và tứ mà trong nhiều trường hợp, người ta đã đồng nhất hai khái niệm này. Lúc đó, có thể xem “tìm hiểu cấu tứ của bài thơ” và “tìm hiểu tứ thơ của bài thơ” là hai hình thức diễn đạt khác nhau về cùng một ý (nội dung).
Câu 9: Hãy trình bày về khái niệm, đặc điểm yếu tố tượng trưng trong thơ.
Trả lời:
- Trong lĩnh vực sáng tác văn học – nghệ thuật nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, thuật ngữ tượng trưng trước hết được dùng để chỉ một loại hình ảnh, hình tượng mang tính đặc thù. Ở đó, người nghệ sĩ thường sử dụng các hình ảnh, sự vật có thể tri giác được hay các câu chuyện cụ thể để diễn tả hoặc gợi lên cảm nhận sâu xa về những vấn đề có ý nghĩa bao trùm và mang tính bản chất. Thuật ngữ này thường xuất hiện trong các kết hợp từ: hình ảnh, hình tượng tượng trưng; yếu tố tượng trưng; tính chất tượng trưng; chủ nghĩa tượng trưng;... - Trong lĩnh vực sáng tác văn học – nghệ thuật nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, thuật ngữ tượng trưng trước hết được dùng để chỉ một loại hình ảnh, hình tượng mang tính đặc thù. Ở đó, người nghệ sĩ thường sử dụng các hình ảnh, sự vật có thể tri giác được hay các câu chuyện cụ thể để diễn tả hoặc gợi lên cảm nhận sâu xa về những vấn đề có ý nghĩa bao trùm và mang tính bản chất. Thuật ngữ này thường xuất hiện trong các kết hợp từ: hình ảnh, hình tượng tượng trưng; yếu tố tượng trưng; tính chất tượng trưng; chủ nghĩa tượng trưng;...
- Trước một hình ảnh, hình tượng chứa đựng nhiều tầng nghĩa và gợi lên những cảm nhận đa chiều, người ta có căn cứ để nói đến sự hiện diện của yếu tố tượng trưng. Yếu tố tượng trưng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính chất tượng trưng của bài thơ. - Trước một hình ảnh, hình tượng chứa đựng nhiều tầng nghĩa và gợi lên những cảm nhận đa chiều, người ta có căn cứ để nói đến sự hiện diện của yếu tố tượng trưng. Yếu tố tượng trưng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính chất tượng trưng của bài thơ.
- Mọi hình ảnh, hình tượng thơ, xét từ bản chất, đã có tính chất tượng trưng. Nhưng với những sáng tác thuộc trường phái thơ tượng trưng hoặc thuộc loại hình thơ tượng trưng, tính chất này đã đạt một chất lượng mới. Điều này liên quan đến sự ý thức sâu sắc của nhà thơ về các mối tương giao bí ẩn trong đời sống, nổi bật là tương giao giữa con người với tạo vật, vũ trụ. - Mọi hình ảnh, hình tượng thơ, xét từ bản chất, đã có tính chất tượng trưng. Nhưng với những sáng tác thuộc trường phái thơ tượng trưng hoặc thuộc loại hình thơ tượng trưng, tính chất này đã đạt một chất lượng mới. Điều này liên quan đến sự ý thức sâu sắc của nhà thơ về các mối tương giao bí ẩn trong đời sống, nổi bật là tương giao giữa con người với tạo vật, vũ trụ.
- Ở những bài thơ có yếu tố tượng trưng, các tác giả thường chú ý làm nổi bật tính biểu tượng của các hình ảnh, chi tiết, sự việc,... bằng những cách thức khác nhau. Bên cạnh đó, việc phối hợp các âm tiết, thanh điệu, nhịp điệu nhằm khơi dậy những cảm giác bất định, mơ hồ cũng rất được quan tâm. Với một số nhà thơ tượng trưng, trong số nhiều thủ pháp nghệ thuật được sử dụng, không thể không nói đến việc hoà trộn cảm nhận của các giác quan, việc diễn tả chi tiết những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, hiện tượng,... - Ở những bài thơ có yếu tố tượng trưng, các tác giả thường chú ý làm nổi bật tính biểu tượng của các hình ảnh, chi tiết, sự việc,... bằng những cách thức khác nhau. Bên cạnh đó, việc phối hợp các âm tiết, thanh điệu, nhịp điệu nhằm khơi dậy những cảm giác bất định, mơ hồ cũng rất được quan tâm. Với một số nhà thơ tượng trưng, trong số nhiều thủ pháp nghệ thuật được sử dụng, không thể không nói đến việc hoà trộn cảm nhận của các giác quan, việc diễn tả chi tiết những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, hiện tượng,...
Câu 10: Những hình ảnh ( trăng”, "cột sọc chí đường”) và am thanh (“tiếng lục lạc”, “kìm đồng hồ kêu tích tắc") trong bài thơ “Con đường mùa đông” đã điền tả mẫu thuẫn giữa nỗi buồn với ý thức vận động vượt qua trở ngại của nhân vật trữ tình trên con đường mùa đông như thể nào?
Trả lời:
Những hình ảnh (”trăng”, “cột sọc chỉ đường") và âm thanh (“tiếng lục lạc", "kim đồng hồ kêu tích tác") trong bài thơ hiện lên với một trạng thái buồn rầu, thấm đượm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhưng ở mỗi sự vật, ta đều bắt gặp một sự gắng gượng, cố gắng xốc lại tinh thần của tác giả bằng những từ mang ý nghĩ hướng tích cực như: cột sọc chỉ đường – chào ta, kim đồng hồ tích tắc – xua lũ người tẻ nhạt… Tất cả cho thấy nội tâm của nhân vật trữ tình đang đấu tranh mạnh mẽ, một bên là nỗi buồn cô đơn, tẻ nhạt, nhớ nhà, nhớ quê hương, một bên là sự gắng gượng, sốc lại tinh thần như một lời tự an ủi tác giả dành cho mình. Qua đó, ta thấy được một con người đa sầu, đa cảm, luôn đấu tranh để giữ vững nội tâm của mình trước hoàn cảnh tù đày khổ đau.
Câu 11: Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Con đường mùa đông.
Trả lời:
Bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc lẫn lộn, vui có buồn có. Trong cái lạnh giá bao phủ của mùa đông, nhân vật trữ tình đã nghĩ về bếp lửa, sự sum họp bên gia đình. Những khao khát và ước mơ đó của nhân vật góp phần nghĩ về tương lai, những thứ tốt đẹp và gần gũi hơn bao giờ hết. Nỗi buồn bao trùm cả bài thơ nhưng đó là nỗi buồn trong sáng giúp thanh lọc tâm hồn. Nỗi buồn đó còn là nỗi buồn của Puskin.
Câu 12: Theo bạn, nhan đề Nhớ đồng đã bao quát được toàn bộ nội dung cảm xúc của bài thơ hay chưa? Vì sao? Nên hiểu như thế nào về nghĩa của từ “đồng” trong nhan đề?
Trả lời:
- Nhan đề - Nhan đề Nhớ đồng đã bao quát được toàn bộ nội dung cảm xúc của bài thơ. “Nhớ đồng” ở đây là nhớ về quê hương. Cảm xúc thương nhớ đó chi phối toàn bài thơ, được thể hiện qua những hình ảnh về quê hương. Có một số đoạn không nói về quê hương nhưng cảm xúc nhớ quê vẫn là yếu tố tác nên điều đó, tạo nên khao khát muốn được thoát khỏi lao tù.
Câu 14: Bạn có nhận xét gì về đặc điểm hình thức và nội dung của các khổ thơ 1, 4, 7, 13 trong văn bản “nhớ đồng”? Các khổ thơ này được phân bố theo “quy luật” nào?
Trả lời:
Khổ 1: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Khổ 4: Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Khổ 7: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Khổ 13: Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
- Hình thức: các khổ thơ này chỉ có 2 câu so với 4 câu ở các khổ khác. Câu đầu có hình thức của một câu hỏi, câu sau có hình thức của câu cảm thán. - Hình thức: các khổ thơ này chỉ có 2 câu so với 4 câu ở các khổ khác. Câu đầu có hình thức của một câu hỏi, câu sau có hình thức của câu cảm thán.
- Nội dung: Thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc. Mỗi khổ như một lần nhấn mạnh vào cảm xúc của tác giả. - Nội dung: Thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc. Mỗi khổ như một lần nhấn mạnh vào cảm xúc của tác giả.
- Quy luật: Ta có thể dễ dàng nhận thấy là khổ 1 giống với khổ 7 và khổ 4 giống khổ 13. - Quy luật: Ta có thể dễ dàng nhận thấy là khổ 1 giống với khổ 7 và khổ 4 giống khổ 13.
Câu 15: Thế nào là "sâu chót vót” trong Tràng giang?
Trả lời:
“Sâu chót vót” là tính từ để miêu tả bầu trời xanh thẳm. Đó là bầu trời không chỉ cao, xanh, hun hút ánh hoàng hôn mà ẩn sâu trong đó có là sự rợn ngợp của khung cảnh, giữa cái vũ trụ bao la rộng lớn, con người trở lên thật nhỏ bé, đáng thương.
Câu 16: Tràng giang thường được nhìn nhận là bài thơ giàu yếu tố tượng trưng. Bạn suy nghĩ về vấn đề đó như nào?
Trả lời:
Hình ảnh "sóng", con thuyền, củi một cành khô là biểu trưng cho kiếp người vô định, lang thang, không bến bờ, không có sự lựa chọn, không biết đi đâu về đâu trên hành trình cuộc đời.
Chót vót vốn là từ láy vốn chỉ được sử dụng để diễn tả độ cao, trong câu thơ của Huy Cận, nó lại đi với chiều sâu. Cảm giác sâu chót vót là có thật bởi tác giả nhìn dòng sông và thấy bầu trời dưới đáy sông sâu.
=> Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ.
– Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.
Như vậy, bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ giàu yếu tố tượng trưng bởi chỉ bằng những nét chấm phá đơn giản qua những hình ảnh giản dị như sóng, trời, làng xa, mây… người đọc đã có thể dễ dàng hiểu được ý đồ tác giả muốn truyền tải. Không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của cảnh vật quê hương, đất nước mà ẩn sâu trong đó là tâm trạng man mác buồn, cô đơn, lẻ loi của nhân vật trữ tình trước sự hùng vĩ, bao la, mênh mông của vũ trụ. Đó là tâm hồn của một người chiến sỹ, một người thanh niên tràn ngập tình yêu quê hương, đất nước.
Câu 17: Nêu giá trị bài thơ “Nhớ đồng”
Trả lời:
Giá trị nội dung:
- Bài thơ là tiếng lòng da diết với cuộc đời, cuộc sống tự do và say mê cách mạng của nhân vật trữ tình.
- Thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của chính mình.
Câu 18: Nêu giá trị nghệ thuật bài thơ “Nhớ đồng”
Trả lời:
Giá trị nghệ thuật:
- Sử dụng rất thành công biện pháp tu từ điệp ngữ, điệp cấu trúc.
- Giọng thơ da diết, khắc khoải, sâu lắng.
- Hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mộc mạc, đời thường
Câu 19: Hãy phân tích khổ thơ thứ nhất Tràng giang
Trả lời:
- Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể, đó là một tứ thơ cổ điển: - Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể, đó là một tứ thơ cổ điển:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
- Bài thơ có tựa đề - Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải trường giang; mặc dù tràng giang và trường giang đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu; tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, tràng giang còn gọi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là ở nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).
- Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất trân trọng vốn thơ ca dân tộc và thích thơ Đường. Trong sáng tác của ông, người đọc dễ dàng cảm nhận được dấu ấn của Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng quý là chúng đã được Việt hoá, nói cho đúng hơn là đã được Huy Cận hoá một cách nhuần nhị. - Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất trân trọng vốn thơ ca dân tộc và thích thơ Đường. Trong sáng tác của ông, người đọc dễ dàng cảm nhận được dấu ấn của Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng quý là chúng đã được Việt hoá, nói cho đúng hơn là đã được Huy Cận hoá một cách nhuần nhị.
- Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài - Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật như cách đối trong thơ cổ.
- Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như - Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Tuy vậy, Tràng giang vẫn có nét hiện đại, nói cụ thể hơn là sản phẩm của phong trào Thơ mới (1932 – 1945). Đúng thế, Tràng giang hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
- Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi vì trong đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như - Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi vì trong đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô. Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
Câu 20: Hãy phân tích khổ thơ thứ hai Tràng giang
Trả lời:
- Nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật: - Nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
- Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch - Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa, cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu cùng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn,... Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều đã vãn). Dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Chợ chiều khi xưa thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ họp buổi sáng. Ở đây, chúng tôi thiên về cách hiểu: Ngay cả tiếng chợ chiều đã vãn ở một làng xa nào đấy cũng không có nữa, tất cả đều vắng lặng, cô tịch; bởi lẽ trong toàn bộ bài thơ, dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chợ chiều nằm trong hệ thống không một chuyến đò và không một cây cầu ở khổ thơ sau), chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh mông, xa vắng...
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
- Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. - Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. Sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót khắc hoạ được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bờ bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).
Câu 21: Hãy nhận diện và phân tích ý nghĩa của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường được thể hiện trong hai câu thơ sau (trích Tràng giang):
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Trả lời:
- Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong hai câu thơ trên là dùng hình thức đảo ngữ. Ở câu đầu, kết hợp thông dụng phải là: cồn nhỏ lơ thơ; câu hai: tiếng làng xa đâu đó. (Lưu ý: câu sau còn có một cách hiểu khác với từ “đâu” có nghĩa là “không”). - Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong hai câu thơ trên là dùng hình thức đảo ngữ. Ở câu đầu, kết hợp thông dụng phải là: cồn nhỏ lơ thơ; câu hai: tiếng làng xa đâu đó. (Lưu ý: câu sau còn có một cách hiểu khác với từ “đâu” có nghĩa là “không”).
- Tác dụng: Nhằm nhấn mạnh đặc điểm của đối tượng được miêu tả. Ở đây, tác giả muốn nhấn mạnh sự xơ xác của cỏ cây và sự vắng lặng, não nề của âm thanh. - Tác dụng: Nhằm nhấn mạnh đặc điểm của đối tượng được miêu tả. Ở đây, tác giả muốn nhấn mạnh sự xơ xác của cỏ cây và sự vắng lặng, não nề của âm thanh.
Câu 22: Tìm và phân tích hiện tượng phá vỡ trật tự thông thường của từ trong những câu sau:
a) Tình thư một bức phong còn kín, / Gió nơi đâu, gượng mở xem.
b) Lom khom dưới núi, tiều vài chú, / Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
c) Đã hết thời, thứ nghệ thuật khéo léo phấn son mà bên trong mục ruỗng, nghèo nàn.
d) Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những người gầy gò, rách rưới.
Trả lời:
Gợi ý: Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong các câu trên là dùng hình thức đảo ngữ với mục đích nhấn mạnh đối tượng được miêu tả.
Câu 23: Phân tích hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường gây nên tiếng cười bất ngờ trong câu chuyện sau:
Sư cụ xơi thịt cầy vụng ở trong phòng. Chú tiểu biết, hỏi:
– Bạch cụ, cụ xơi gì trong ấy ạ?
Sư cụ đáp:
– Tao ăn đậu phụ.
Lúc ấy, có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài cổng chùa. Sư cụ hỏi:
– Cái gì ngoài cổng thế?
Chú tiểu đáp:
– Bạch cụ! Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa đấy ạ!
Trả lời:
- Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong truyện là sử dụng kết hợp không hợp lí: đậu phụ làng. Chú tiểu biết cái sư cụ ăn là thịt của con vật giống như những con đang sủa ầm ĩ ngoài cổng chùa. Nghe theo sư cụ và có thể là chưa biết cách kết hợp này là không đúng, chú tiểu đã nói một câu khiến người ta phải bật cười. - Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong truyện là sử dụng kết hợp không hợp lí: đậu phụ làng. Chú tiểu biết cái sư cụ ăn là thịt của con vật giống như những con đang sủa ầm ĩ ngoài cổng chùa. Nghe theo sư cụ và có thể là chưa biết cách kết hợp này là không đúng, chú tiểu đã nói một câu khiến người ta phải bật cười.
Câu 24: Nhan đề bài thơ Con đường mùa đông gợi cho bạn những liên tưởng gì?
Trả lời:
- Nhan đề “Con đường mùa đông” gợi cho em những liên tưởng về một con đường lạnh lẽo, không một bóng người. Một con đường mờ mịt, tăm tối với cái giá lạnh gào thét, ăn sâu vào da thịt của người độc hành. Phải chăng tác giả đang muốn dùng hình ảnh này để ẩn dụ cho hoàn cảnh hiện tại của mình, cô đơn, lạnh lẽo và thấm đượm nỗi buồn đau. - Nhan đề “Con đường mùa đông” gợi cho em những liên tưởng về một con đường lạnh lẽo, không một bóng người. Một con đường mờ mịt, tăm tối với cái giá lạnh gào thét, ăn sâu vào da thịt của người độc hành. Phải chăng tác giả đang muốn dùng hình ảnh này để ẩn dụ cho hoàn cảnh hiện tại của mình, cô đơn, lạnh lẽo và thấm đượm nỗi buồn đau.
Câu 25: Những hình ảnh (“trăng”, “cột sọc chỉ đường”) và âm thanh (“tiếng lục lạc”, “kim đồng hồ kêu tích tắc”) trong bài thơ đã diễn tả mâu thuẫn giữa nỗi buồn với ý thức vận động vượt qua trở ngại của nhân vật trữ tình trên con đường mùa đông như thế nào?
Trả lời:
- Những hình ảnh (“trăng”, “cột sọc chỉ đường") và âm thanh (“tiếng lục lạc", "kim đồng hồ kêu tích tác") trong bài thơ hiện lên với một trạng thái buồn rầu, thấm đượm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhưng ở mỗi sự vật, ta đều bắt gặp một sự gắng gượng, cố gắng xốc lại tinh thần của tác giả bằng những từ mang ý nghĩ hướng tích cực như: cột sọc chỉ đường – chào ta, kim đồng hồ tích tắc – xua lũ người tẻ nhạt… Tất cả cho thấy nội tâm của nhân vật trữ tình đang đấu tranh mạnh mẽ, một bên là nỗi buồn cô đơn, tẻ nhạt, nhớ nhà, nhớ quê hương, một bên là sự gắng gượng, sốc lại tinh thần như một lời tự an ủi tác giả dành cho mình. Qua đó, ta thấy được một con người đa sầu, đa cảm, luôn đấu tranh để giữ vững nội tâm của mình trước hoàn cảnh tù đày khổ đau. - Những hình ảnh (“trăng”, “cột sọc chỉ đường") và âm thanh (“tiếng lục lạc", "kim đồng hồ kêu tích tác") trong bài thơ hiện lên với một trạng thái buồn rầu, thấm đượm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhưng ở mỗi sự vật, ta đều bắt gặp một sự gắng gượng, cố gắng xốc lại tinh thần của tác giả bằng những từ mang ý nghĩ hướng tích cực như: cột sọc chỉ đường – chào ta, kim đồng hồ tích tắc – xua lũ người tẻ nhạt… Tất cả cho thấy nội tâm của nhân vật trữ tình đang đấu tranh mạnh mẽ, một bên là nỗi buồn cô đơn, tẻ nhạt, nhớ nhà, nhớ quê hương, một bên là sự gắng gượng, sốc lại tinh thần như một lời tự an ủi tác giả dành cho mình. Qua đó, ta thấy được một con người đa sầu, đa cảm, luôn đấu tranh để giữ vững nội tâm của mình trước hoàn cảnh tù đày khổ đau.
Câu 26: “Xe tam mã”, “bài ca của người xà ích”, “mái lều, ánh lửa”, “Nhi-na” có ý nghĩa tinh thần thế nào đối với hành trình của nhân vật trữ tình trên “con đường mùa đông”?
Trả lời:
- “Xe tam mã", “bài ca của người xà ích”, “mái lều, ánh lửa”, “Nhi-na” đều là những hình ảnh quan trọng xuất hiện trong tâm trí của tác giả, vừa thể hiện nội tâm, vừa thể hiện khát khao cháy bỏng của tác giả. Đó là sự vượt qua nỗi buồn thầm kín của bản thân, phá tan bức “mái lều” trong tâm trí; đó còn là nỗi niềm mong muốn trở lại cuộc sống trước kia, bên cạnh người thương của mình, tận hưởng những phút giây hạnh phúc trong đời. Bởi vậy, qua những hình ảnh ấy, người đọc có thể hình dung được những giai đoạn tâm lý của tác giả đang ở mức độ nào, là đang chìm đắm hay thức tỉnh, đang chán nản hay khát khao hy vọng… Tất cả đều làm nổi bật lên một tâm hồn đa sầu, đa cảm của nhân vật trữ tình hay chính Pu-skin. - “Xe tam mã", “bài ca của người xà ích”, “mái lều, ánh lửa”, “Nhi-na” đều là những hình ảnh quan trọng xuất hiện trong tâm trí của tác giả, vừa thể hiện nội tâm, vừa thể hiện khát khao cháy bỏng của tác giả. Đó là sự vượt qua nỗi buồn thầm kín của bản thân, phá tan bức “mái lều” trong tâm trí; đó còn là nỗi niềm mong muốn trở lại cuộc sống trước kia, bên cạnh người thương của mình, tận hưởng những phút giây hạnh phúc trong đời. Bởi vậy, qua những hình ảnh ấy, người đọc có thể hình dung được những giai đoạn tâm lý của tác giả đang ở mức độ nào, là đang chìm đắm hay thức tỉnh, đang chán nản hay khát khao hy vọng… Tất cả đều làm nổi bật lên một tâm hồn đa sầu, đa cảm của nhân vật trữ tình hay chính Pu-skin.
Câu 27: Bạn có nhận xét gì về cấu tứ của bài thơ Con đường mùa đông? Hãy liên hệ với một bài thơ khác có cùng kiểu cấu tứ này mà bạn biết.
Trả lời:
- Cấu tứ của bài thơ rất độc đáo. Chủ đề chính của bài thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trên con đường mùa đông lạnh lẽo. Cùng với đó là cách sắp xếp ý, chọn lọc ý hết sức tài tình của tác giả. Tâm trạng của nhân vật trữ tình đi từ buồn chán, tẻ nhạt rồi đến cuối bài thơ, vẫn là những sự vật ấy nhưng trạng thái đã khác, càng buồn hơn nhưng trong đó vẫn ẩn chứa một niềm hy vọng mong manh về một ngày sẽ trở về. - Cấu tứ của bài thơ rất độc đáo. Chủ đề chính của bài thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trên con đường mùa đông lạnh lẽo. Cùng với đó là cách sắp xếp ý, chọn lọc ý hết sức tài tình của tác giả. Tâm trạng của nhân vật trữ tình đi từ buồn chán, tẻ nhạt rồi đến cuối bài thơ, vẫn là những sự vật ấy nhưng trạng thái đã khác, càng buồn hơn nhưng trong đó vẫn ẩn chứa một niềm hy vọng mong manh về một ngày sẽ trở về.
- Bài thơ khác cùng kiểu cấu tứ với bài “Con đường mùa đông” là bài thơ “Tuyết nhấp nhô như sóng” của Puskin: - Bài thơ khác cùng kiểu cấu tứ với bài “Con đường mùa đông” là bài thơ “Tuyết nhấp nhô như sóng” của Puskin:
Tuyết nhấp nhô như sóng
Tuyết nhấp nhô như sóng
Ngời sáng trên đồng quang
Trăng lưỡi liềm lai láng
Tam mã phóng trên đường
Hát nghe những khúc hát
Giải nỗi buồn trong đêm
Ôi, xiết bao thân thiết
Những lời ca ngang tàng!
Hát đi, bác xà ích!
Ta sẽ chăm chú nghe
Trăng liềm soi tịch mịch
Buồn tênh gió thoang xa
Hát đi: "Trăng, trăng đẹp
Sao trăng lại cứ nhoà?"
(Bản dịch của Thúy Toàn)
Câu 28: Hãy nhận xét về phong cách của bài thơ.
Trả lời:
- Đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, trước hết chính là nỗi buồn của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc. - Đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới, trước hết chính là nỗi buồn của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.
- Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói sóng nhớ đến quê hương – - Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói sóng nhớ đến quê hương – Lầu Hoàng Hạc, Huy Cận không cần có khói sóng – tức là không cần có cái gợi nhớ – mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn. Vì thế, nó hiện đại hơn.
- Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi, nhưng - Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi, nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng lượn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà, thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta. Đọc bài thơ này, có người nhớ đến cái làng ở vùng sơn cước heo hút bên bờ sông Thâm, tỉnh Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn của Huy Cận.
Và xét ở một phương diện nào đấy, Tràng giang đúng là một bài thơ “ca hát non sông đất nước; do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).
Câu 29: Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?
Trả lời:
- Bài thơ tạo dựng một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang, vô biên, đậm chất Đường thi. Đó là một hệ thống hình ảnh ước lệ thường được dùng trong thơ cổ: tràng giang; thuyền về, nước lại; nắng xuống, trời lên; sông dài, trời rộng; mây cao đùn núi bạc; bóng chiều; vời con nước; khói hoàng hôn,... - Bài thơ tạo dựng một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang, vô biên, đậm chất Đường thi. Đó là một hệ thống hình ảnh ước lệ thường được dùng trong thơ cổ: tràng giang; thuyền về, nước lại; nắng xuống, trời lên; sông dài, trời rộng; mây cao đùn núi bạc; bóng chiều; vời con nước; khói hoàng hôn,...
- Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên ấy lại có nét quen thuộc, gần gũi, phảng phất cảnh vật sông nước trên khắp đất nước Việt Nam: một dòng sông mênh mang, một con thuyền xuôi dòng; một cành củi khô và những cánh bèo trôi dạt lênh đênh; những bờ cây xanh; những bãi cát vàng; một cánh chim nhỏ in trên trời mây,... - Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên ấy lại có nét quen thuộc, gần gũi, phảng phất cảnh vật sông nước trên khắp đất nước Việt Nam: một dòng sông mênh mang, một con thuyền xuôi dòng; một cành củi khô và những cánh bèo trôi dạt lênh đênh; những bờ cây xanh; những bãi cát vàng; một cánh chim nhỏ in trên trời mây,...
è Sự hoà quyện của hai hệ thống hình ảnh đó tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà thân quen.
Câu 30: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?
Trả lời:
- Tình yêu thiên nhiên thấm đượm lòng yêu nước thầm kín: Đây là thời các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió ( - Tình yêu thiên nhiên thấm đượm lòng yêu nước thầm kín: Đây là thời các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió (Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà, Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân,...). Huy Cận từng viết về nỗi buồn sông núi – nỗi buồn của người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn sầu ấy đã hoà vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.