Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 3: Cấu trúc của văn bản nghị luận (P2)
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 3: Cấu trúc của văn bản nghị luận. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
ÔN TẬP BÀI 3. CẤU TRÚC CỦA VĂN BẢN NGHỊ LUẬN (PHÂN 2)
Câu 1: Hãy nêu khái niệm và đặc điểm của ngôn ngữ nói.
Trả lời:
– Ngôn ngữ nói là lời nói sử dụng trong giao tiếp hằng ngày; thể hiện thái độ, phản ứng tức thời của người nói và người nghe. Vì vậy, ngôn ngữ nói thường có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Đa dạng về ngữ điệu (gấp gáp, chậm rãi; to, nhỏ;...), góp phần thể hiện trực tiếp tình cảm, thái độ của người nói. + Đa dạng về ngữ điệu (gấp gáp, chậm rãi; to, nhỏ;...), góp phần thể hiện trực tiếp tình cảm, thái độ của người nói.
+ Thường sử dụng khẩu ngữ, từ địa phương, tiếng lóng, trợ từ, thán từ, từ ngữ chêm xen, đưa đẩy,... + Thường sử dụng khẩu ngữ, từ địa phương, tiếng lóng, trợ từ, thán từ, từ ngữ chêm xen, đưa đẩy,...
+ Thường sử dụng cả câu tỉnh lược và câu có yếu tố dư thừa, trùng lặp. Câu tỉnh lược thường được dùng để lời nói ngắn gọn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, câu lại chứa nhiều yếu tố dư thừa, trùng lặp (do người nói vừa nghĩ vừa nói, không có điều kiện gọt giũa hoặc do người nói muốn lặp lại để giúp người nghe có thời gian lĩnh hội thấu đáo nội dung giao tiếp). + Thường sử dụng cả câu tỉnh lược và câu có yếu tố dư thừa, trùng lặp. Câu tỉnh lược thường được dùng để lời nói ngắn gọn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, câu lại chứa nhiều yếu tố dư thừa, trùng lặp (do người nói vừa nghĩ vừa nói, không có điều kiện gọt giũa hoặc do người nói muốn lặp lại để giúp người nghe có thời gian lĩnh hội thấu đáo nội dung giao tiếp).
+ Kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ như: nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,... + Kết hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ như: nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,...
– Lưu ý:
+ Nói và đọc (thành tiếng) một văn bản là khác nhau. Đọc (thành tiếng) bị lệ thuộc vào văn bản viết. Dù vậy, người đọc vẫn có thể tận dụng những ưu thế của ngôn ngữ nói như ngữ điệu, các phương tiện phi ngôn ngữ để làm cho phần đọc diễn cảm hơn. + Nói và đọc (thành tiếng) một văn bản là khác nhau. Đọc (thành tiếng) bị lệ thuộc vào văn bản viết. Dù vậy, người đọc vẫn có thể tận dụng những ưu thế của ngôn ngữ nói như ngữ điệu, các phương tiện phi ngôn ngữ để làm cho phần đọc diễn cảm hơn.
+ Ngôn ngữ nói có thể được ghi lại bằng chữ viết, chẳng hạn như đoạn đối thoại của các nhân vật trong văn bản truyện, cuộc phỏng vấn trong một bài báo,... + Ngôn ngữ nói có thể được ghi lại bằng chữ viết, chẳng hạn như đoạn đối thoại của các nhân vật trong văn bản truyện, cuộc phỏng vấn trong một bài báo,...
Câu 2: Hãy nêu khái niệm và đặc điểm của ngôn ngữ viết.
Trả lời:
– Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết trong văn bản và được tiếp nhận bằng thị giác. Khi viết, người viết có điều kiện chọn lọc các phương tiện ngôn ngữ; còn khi đọc, người đọc có điều kiện suy ngẫm, phân tích kĩ lưỡng. Vì vậy, ngôn ngữ viết có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Được thể hiện bằng chữ viết, hệ thống dấu câu, các kí hiệu văn tự. + Được thể hiện bằng chữ viết, hệ thống dấu câu, các kí hiệu văn tự.
+ Sử dụng từ ngữ chọn lọc, phù hợp với từng phong cách; tránh sử dụng khẩu ngữ và từ ngữ địa phương. + Sử dụng từ ngữ chọn lọc, phù hợp với từng phong cách; tránh sử dụng khẩu ngữ và từ ngữ địa phương.
+ Có thể sử dụng câu dài, nhiều thành phần nhưng được tổ chức mạch lạc, chặt chẽ. + Có thể sử dụng câu dài, nhiều thành phần nhưng được tổ chức mạch lạc, chặt chẽ.
+ Có thể kết hợp các phương tiện phi ngôn ngữ như hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ,.... + Có thể kết hợp các phương tiện phi ngôn ngữ như hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ,....
– Lưu ý: Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ viết có thể được trình bày lại bằng lời nói, chẳng hạn như trường hợp thuyết trình một vấn đề đã chuẩn bị, trình bày bài phát biểu đã soạn trước,... Trong các trường hợp này, lời nói tận dụng được những ưu thế của ngôn ngữ viết đồng thời vẫn có sự phối hợp với các phương tiện phi ngôn ngữ làm tăng hiệu quả biểu đạt.
Câu 3: Dưới đây là một trích đoạn trong cuộc trò chuyện giữa phóng viên và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
– Chị thích điều gì nhất ở con người?
– Chà, câu hỏi này mênh mông ghê. Tôi thích nụ cười nở trên gương mặt của một con người có tấm lòng nhân hậu. Nhiêu đó đủ rồi.
Đặc điểm nổi bật nào của ngôn ngữ nói được thể hiện trong đoạn trích?
Trả lời:
– Trong câu trả lời của Nguyễn Ngọc Tư, có những phương tiện ngôn ngữ đặc trưng của ngôn ngữ nói, đó là các từ cảm thán như “chà”, “ghê” hay từ địa phương như “nhiêu”.
Câu 4: Tìm hiểu cách lập luận chặt chẽ của tác giả Hoài Thanh trong Một thời đại của thi ca khi định nghĩa về thơ mới.
Trả lời:
– Để định nghĩa về thơ mới trong đoạn trích này, Hoài Thanh đã có những bước lập luận chặt chẽ như sau:
Bước 1. Nêu nguyên tắc chung của việc định nghĩa là:
a) Chỉ căn cứ vào cái hay, không căn cứ vào cái dở.
b) Chỉ căn cứ vào đại thể, không căn cứ vào tiểu tiết.
(Cái dở và tiểu tiết không đủ tư cách để đại diện cho nghệ thuật và cho những thời đại lớn của nghệ thuật).
Bước 2. Nêu ra định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh:
a) Tinh thần thơ cũ gồm trong chữ ta.
b) Tinh thần thơ mới gồm trong chữ tôi.
(Có nói chỗ giống nhau, nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này).
Bước 3. Luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ ta và tôi.
a) Chữ ta với biểu hiện và số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia.
b) Chữ tôi với biểu hiện chữ tôi và số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
– Như vậy qua ba bước trên, người ta thấy Hoài Thanh đã tuân theo trật tự: từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước, với trật tự ấy, rất đảm bảo tính lô gích của tư duy. Vì vậy mà khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Câu 5: Hoài Thanh hiểu như thế nào về nội dung của chữ tôi và chữ ta?
Trả lời:
– Nội dung của chữ tôi là ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần con người.
– Nội dung của chữ ta là phần ý thức cộng đồng (chữ dùng của Hoài Thanh là "đoàn thể") trong đời sống tinh thần của con người.
– Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong đời sống tinh thần của mỗi người. Ở thời trước, cái ta lấn át hoàn toàn, cái tôi không có cơ để nảy nở. Còn thời đại này, cái tôi trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái tôi đó.
Câu 6: Hãy trình bày những hiểu biết của em về phê bình văn học.
Trả lời:
Tham khảo:
– Phê bình văn học là một bộ phận của văn học, có chức năng phẩm bình, đánh giá và lí giải các hiện tượng văn học như tác phẩm, tác giả, khuynh hướng, trào lưu văn học. Do đó, phê bình văn học là sự tự nhận thức của văn học, thể hiện trình độ ý thức của một nền văn học. Phê bình văn học phải dựa trên cơ sở những cảm thụ tinh tế, phong phú trước những giá trị văn chương; nhưng cải đích của phê bình văn học là phải đưa ra được những nhận định đúng đắn về các hiện tượng văn học. Vì đối tượng của phê bình văn học là sản phẩm nghệ thuật, nên phải có sự rung cảm với nghệ thuật thì mới đánh giá đúng được. Vì thế, mỗi bài phê bình văn học đích thực bao giờ cũng vừa là công trình khoa học, vừa có tính nghệ thuật nhất định. Trong diễn đạt, văn phê bình cũng thường kết hợp được cả hai yêu cầu: vừa chính xác, chặt chẽ, vừa giàu cảm xúc, hình ảnh.
– Trong thực tế, có những bài phê bình văn học nghiêng về trình bày những cảm xúc, ấn tượng cả nhân đậm chất chủ quan của người viết, gần gũi với văn sáng tác (chẳng hạn, các bài tựa cho các tập thơ văn, bài bình văn, bình thơ hay chân dung văn học,...). Lại có bài nghiêng về luận giải, cắt nghĩa một cách khách quan các hiện tượng văn học, gần gũi với văn lí luận nghiên cứu (chẳng hạn, những bài phân tích toàn bộ sự nghiệp của một tác giả, phản tích các khuynh hướng, các trào lưu văn học....). Lịch sử phê bình từ xưa đến nay đã xuất hiện nhiều khuynh hướng phê bình. Có lối phẩm bình tuỳ hứng, dựa hoàn toàn vào ấn tượng chủ quan, có lối phê bình tuân theo những phương pháp khoa học: phê bình theo lổi triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, kí hiệu học, văn hoá học,.... Những khuynh hướng và phương pháp ấy đã làm cho đời sống phê bình thật phong phú, đa dạng.
– Phê bình văn học có vai trò tích cực đối với đời sống văn học. Trên cơ sở khám phá và khẳng định những giá trị chân chính, phê phán những mặt yếu kém trong văn học, phê bình bao giờ cũng góp phần bồi dưỡng và nâng cao trình độ thẩm mĩ cho người đọc, góp phần tác động tích cực đến hoạt động của người sáng tác. Không phải vô cớ mà người ta đã coi phê bình là bạn đồng hành của sáng tác. Có thể kể đến nhiều nhà phê bình văn học tên tuổi như Xanh-tơ Bơ-vơ (Pháp), Bi-ê-lin-xki (Nga), Kim Thánh Thần, Viên Mai (Trung Quốc), Hoài Thanh (Việt Nam)....
Câu 7: Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích dưới đây:
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
– Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
– Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Trả lời:
Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích:
– Có sự luân phiên lượt lời
– Sử dụng lớp từ mang tính khẩu ngữ: thế mà, chả, này, thì, đấy, nhá, sợ gì,…
– Cách nói mang tính khẩu ngữ: có … gì thì …, muốn … gì thì …, ừ … thì … sợ gì, … thì bỏ bố, làm đếch gì có,…
- Ngữ điệu: - Ngữ điệu:
+ Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt: cười chê, khích tướng + Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt: cười chê, khích tướng
+ Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu: tỏ vẻ không thích + Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu: tỏ vẻ không thích
+ Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì: tỏ vẻ thích thú + Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì: tỏ vẻ thích thú
– Điệu bộ, cử chỉ: cười, đon đả
Câu 8: Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong đoạn trích dưới đây:
Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
– Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
– Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta lảng dân đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi? Ai dại gì mà đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và gọi:
– Anh Chỉ ơi! Sao anh lại làm ra thế?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm; người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười:
– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi, đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy. - Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính không nghĩ trước nghĩ sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Trả lời:
Đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích:
– Có sự luân phiên lượt lời
– Sử dụng lớp từ mang tính khẩu ngữ: ơi, đấy thôi, chưa biết chừng, nào, đi, cứ, có cái gì,…
– Sử dụng câu tỉnh lược: Về bao giờ thế?, Lại say rồi phải không?,…
– Sử dụng câu mệnh lệnh: Nào đứng lên đi.; Cứ vào đây uống nước đã.;…
– Giọng điệu: quát mắng, nhỏ nhẹ, thân mật, nặng lời, phàn nàn,…
Câu 9: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Ngô Thì Nhậm.
Trả lời:
– Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) hiệu là Hy Doãn, người làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). Năm 1775, ông đỗ tiến sĩ, từng được chúa Trịnh giao cho giữ chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc. Năm 1788, khi chế độ Lê – Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm theo phong trào Tây Sơn, được vua Quang Trung phong làm Lại bộ Tả thị lang, sau thăng chức Bình bộ Thượng thư. Ông là người có công lớn đối với triều đại Tây Sơn: thu phục nhiều cựu thần nhà Lê ra cộng tác với nhà Tây Sơn; hỗ trợ đắc lực cho cuộc tiến quân của vua Quang Trung ra Bắc đánh bại quân Thanh xâm lược; phụ trách việc bang giao với nhà Thanh; soạn thảo nhiều văn kiện quan trọng cho triều đại Tây Sơn;...
Câu 10: Hãy nêu nội dung chính của mỗi phần được đánh số trong văn bản Chiếu cầu hiền.
Trả lời:
- Phần 1: Nêu lên tư tưởng xuất phát: Người hiền như sao trên trời, không thể không ra giúp đời. - Phần 1: Nêu lên tư tưởng xuất phát: Người hiền như sao trên trời, không thể không ra giúp đời.
- Phần 2: Thời thế trước đây khiến người tài không thể phát huy. - Phần 2: Thời thế trước đây khiến người tài không thể phát huy.
- Phần 3: Thời thế nay đã thay đổi, nhà vua mong muốn có hiền tài ra giúp nước nhằm chỉnh đốn triều cương, phát triển đất nước. - Phần 3: Thời thế nay đã thay đổi, nhà vua mong muốn có hiền tài ra giúp nước nhằm chỉnh đốn triều cương, phát triển đất nước.
- Phần 4: Chỉ dẫn cách người hiền tài ra giúp nước, chỉ dẫn quan lại tiến cử người tài giỏi. Nhấn mạnh một lần nữa hoàn cảnh hiện thời của đất nước và khuyên người hiền tài ra giúp nước. - Phần 4: Chỉ dẫn cách người hiền tài ra giúp nước, chỉ dẫn quan lại tiến cử người tài giỏi. Nhấn mạnh một lần nữa hoàn cảnh hiện thời của đất nước và khuyên người hiền tài ra giúp nước.
Câu 11: Hãy trình bày cách lập luận của tác giả thể hiện qua bài chiếu cầu hiền.
Trả lời:
Bài chiếu có lập luận chặt chẽ thể hiện ở kết cấu gồm ba phần:
– Thiên tính của người hiền tài là để dùng cho đời.
– Thực trạng người hiền Bắc Hà khi Quang Trung ra Bắc. Từ thực trạng đó, tác giả chỉ ra tính chất của thời đại và vai trò của người hiền tài đối với đất nước, trong buổi đầu mới đại định thiên hạ.
– Con đường để người hiền tài cống hiến cho đất nước rõ ràng, dễ làm và ai cũng làm được.
Câu 12: Hãy cho biết mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử và ý nghĩa của chúng trong bài chiếu.
Trả lời:
– Nội dung đoạn 1 tác giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử. Người hiền như sứ giả của thiên tử phải do thiên tử sử dụng. Không làm như vậy là trái với đạo trời, trái với quy luật cuộc sống. Để làm rõ vấn đề, tác giả dùng phương pháp so sánh, ví người hiền "như sao sáng trên trời", thiên tử là sao Bắc Thần. Quy luật vận động của vũ trụ là tinh tú chầu về Bắc Thần, còn quy luật của con người là "người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử" để thiên tử sai khiến, sử dụng. Hình ảnh so sánh này được tác giả lấy từ lời Khổng Tử trong sách Luận ngữ: "Vi chính dĩ đức, thí như Bắc Thần, cư kì sở, chúng tinh củng chi" nghĩa là, dùng đức để cai trị đất nước cũng giống như sao Bắc Thần đứng đúng vị trí của mình mà các sao khác phải chầu về. Mở đầu bài chiếu bằng lời Khổng Tử có sức thuyết phục mạnh mẽ sĩ phu Bắc Hà, bởi các sĩ phu Bắc Hà vốn am hiểu kinh điển nho gia nên nghe đến là hiểu ngay. Hơn nữa, trong lòng họ, Khổng Tử là một vị thánh. Lời Khổng Tử là chân lí, ai cũng tin và tuân theo.
– Nếu mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử, tác giả đặt ra vấn đề vận mệnh đất nước và trách nhiệm của bậc hiền tài
Câu 13: Phân tích vì sao tác giả nói “chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lại “đáng thương” và … “tội nghiệp”.
Trả lời:
– Bản thân tâm trạng đau buồn của các nhà thơ mới, của lớp thanh niên bấy giờ cũng chứng tỏ họ bất mãn với thời cuộc, với thực trạng dân tộc đang bị nô lệ. “Xuân Diệu, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại, chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại của hết thảy chúng ta”. Họ đều có cái “buồn”, “xôn xao” của thời đại trong lòng.
– Bi kịch ở các nhà thơ mới ít nhiều cũng bộc lộ lòng yêu nước của họ. Họ đi tìm một con đường tự giải thoát như lên tiên, trốn vào ái tình, vào điên loạn mê say,... nhưng đều tuyệt vọng.
– Đến với tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ là một cách để họ tỏ bày lòng yêu nước của mình. Họ tìm thấy trong tuyệt vọng chút niềm hi vọng. Họ tự an ủi tiếng Việt còn thì dân tộc còn; các thể thơ dù có biến thiên vẫn bất diệt thì dân tộc mãi mãi vẫn còn. “Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”, họ “tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”...
Câu 14: Em hiểu như thế nào ý của Hoài Thanh khi nhận định về thơ mới là “nó đáng thương... nó tội nghiệp quá...”?
Trả lời:
Lí do theo Hoài Thanh là:
– Thơ mới không còn được cái cốt cách hiên ngang ngày trước: không còn cái khí phách ngang tàng của Lí Bạch, lòng tự trọng để khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ. Thơ chất chứa nỗi “buồn”, “xôn xao”, “cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”, thiếu “một lòng tin đầy đủ”. m điệu thơ có
khi “rên rỉ”, “thảm hại”...
– Thơ mới nói lên cái bi kịch của lớp thanh niên không có lối thoát (Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh... Trốn lên tiên thì động tiên đã khép, hay phiêu lưu trong trường tình thì tình yêu không bền, điên cuồng rồi lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ,...). Đó là cái bi kịch của lớp người ít nhiều có tâm huyết với dân tộc nhưng không đủ khí phách vùng dậy giành độc lập tự do, đành phải nấp mình “dưới những lớp phù hiệu dễ dãi”.
Câu 15: Hãy phân tích những nét đặc sắc trong lời văn phê bình của Hoài Thanh ở đoạn trích này.
Trả lời:
Một nét đặc sắc trong phong cách phê bình của Hoài Thanh là lời văn đầy chất thơ. Nhờ có chất thơ này mà công trình phê bình của ông không khô khan, cứng nhắc mà nhẹ nhàng, tươi mát và uyển chuyển. Chất thơ trong lời văn phê bình Hoài Thanh thể hiện trên nhiều khía cạnh. Trong đoạn trích này, nổi lên một số khía cạnh cơ bản sau:
– Lời văn đầy hình ảnh. Tuy phê bình là một hoạt động khoa học, nhưng Hoài Thanh ít dùng các khái niệm, các thuật ngữ khoa học. Trái lại, ông thường chuyển những khái niệm thành các hình ảnh tương đương. Nhờ đó, lời văn ít trừu tượng, mà giàu tính gợi hình, sống động (ví dụ: đoạn nhận diện về cái tôi và cái ta, đoạn luận về "đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi",...).
– Lời văn giàu nhịp điệu. Hoài Thanh rất chú ý đến việc ngắt nhịp cho câu văn, đoạn văn. Nhịp văn xuôi được ngừng, ngắt thành các tiết tấu rất nhịp nhàng, các vế câu có sự cân xứng, các thủ pháp tạo nhịp điệu như đăng đối, trùng điệp được sử dụng rộng rãi nhuần nhuyễn (Ví dụ: đoạn "đời chúng ta [...] cùng Huy Cận", hay đoạn "chưa bao giờ như bây giờ [...] cho ngày mai").
– Lời văn chú trọng sự đắp đổi về âm thanh. Hoài Thanh am hiểu âm thanh của tiếng Việt sâu sắc. Vì thế lời văn phê bình của ông thường có sự đắp đổi về âm thanh, sự hài thanh tựa như lời thơ. Thanh bằng thanh trắc, các tiết tấu bằng, tiết tấu trắc được sử dụng trong các vế, các câu, các đoạn một cách phong phú và hài hoà. Tất cả khiến cho câu văn, đoạn văn vang lên như một chuỗi âm thanh trầm bổng hoà hợp, không những không trúc trắc, gập ghềnh, mà trái lại, bao giờ cũng thuận, cũng êm và rất gợi cảm (ví dụ: đoạn "đời chúng ta [...] cùng Huy Cận", đoạn "thực chưa bao giờ [...] trong hồn người thanh niên,...").
Câu 16: Trình bày những hiểu biết của em về văn bản Tôi có một ước mơ (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- - Tôi có một ước mơ là nhan đề bài diễn văn nổi tiếng nhất của Martin Luther King, được ông phát biểu trên bậc thềm của đài tưởng niệm Tổng thống Lincoln trong cuộc tuần hành ủng hộ phong trào đòi quyền công dân diễn ra vào ngày 28/8/1963. Với tài hùng biện, ông nói về ước mơ cho tương lai của nước Mỹ, khi người da trắng và người
da đen có thể chung sống bình đẳng.
- - Tôi có một ước mơ của Martin Luther King cho đến nay vẫn được xem là một trong những bài diễn văn xuất sắc nhất trong lịch sử nước Mỹ. Những lời lẽ lay động lòng người của ông đã góp phần gây áp lực, buộc Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Dân quyền năm 1964 dưới thời Tổng thống Lyndon Baines Johnson, quy định cấm phân biệt chủng tộc trên khắp nước Mỹ.
Câu 17: Trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Martin Luther King.
Trả lời:
- Martin Luther King (1929 – 1968) là mục sư, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ cũng như lịch sử đương đại của phong trào đấu tranh bất bạo động. Martin Luther King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và hi sinh cho một lí tưởng cao cả. - Martin Luther King (1929 – 1968) là mục sư, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ cũng như lịch sử đương đại của phong trào đấu tranh bất bạo động. Martin Luther King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và hi sinh cho một lí tưởng cao cả.
- Năm 1964, Martin Luther King là nhân vật trẻ tuổi nhất được chọn để trao giải Nobel Hoà bình cho những nỗ lực chấm dứt nạn kì thị chủng tộc với quan điểm và các biện pháp đấu tranh vì hoà bình và bình đẳng. - Năm 1964, Martin Luther King là nhân vật trẻ tuổi nhất được chọn để trao giải Nobel Hoà bình cho những nỗ lực chấm dứt nạn kì thị chủng tộc với quan điểm và các biện pháp đấu tranh vì hoà bình và bình đẳng.
Câu 18: Ở phần đầu, tác giả có dẫn ra sự kiện tổng thống Abraham Lincoln kí Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ năm 1863. Ý nghĩa của việc dẫn ra văn kiện lịch sử nổi tiếng này là gì?
Trả lời:
- Việc dẫn ra này tạo tiền đề cho lập luận ở đoạn sau đó đồng thời chỉ trích việc chính quyền ra luật một đằng nhưng làm một nẻo. - Việc dẫn ra này tạo tiền đề cho lập luận ở đoạn sau đó đồng thời chỉ trích việc chính quyền ra luật một đằng nhưng làm một nẻo.
- Chú ý: bản - Chú ý: bản Tuyên ngôn do tổng thống Abraham Lincoln kí và bài diễn thuyết lại được đọc ở dưới bóng tượng của ông. Điều này tạo nên sự phù hợp và làm tăng sức tác động của văn bản.
Câu 19: Hãy chỉ ra và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ (điệp ngữ, ẩn dụ,…) đã được tác giả sử dụng trong “Tôi có một ước mơ”.
Trả lời:
- Trong văn bản tác giả đã sử dụng rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh: mùa hè ngột ngạt của người da đen, làn gió thu của tự do và bình đẳng mát mẻ,…; điệp ngữ: đây là lúc, một trăm năm sau,… (Không khó để tìm thấy) - Trong văn bản tác giả đã sử dụng rất nhiều hình ảnh ẩn dụ, so sánh: mùa hè ngột ngạt của người da đen, làn gió thu của tự do và bình đẳng mát mẻ,…; điệp ngữ: đây là lúc, một trăm năm sau,… (Không khó để tìm thấy)
- Hiệu quả: Tạo nên những câu văn giàu sức biểu cảm, tô đậm tính chất của đối tượng mà tác giả đang hướng tới bàn luận, gây ấn tượng cho người đọc, người nghe. Xét ở mục tiêu của bài diễn thuyết, việc dùng các biện pháp tu từ này còn thúc đẩy sự quyết tâm đứng lên đấu tranh của người da đen đồng thời chứng minh cho chính quyền của người da trắng thấy vấn đề nhức nhối của họ. - Hiệu quả: Tạo nên những câu văn giàu sức biểu cảm, tô đậm tính chất của đối tượng mà tác giả đang hướng tới bàn luận, gây ấn tượng cho người đọc, người nghe. Xét ở mục tiêu của bài diễn thuyết, việc dùng các biện pháp tu từ này còn thúc đẩy sự quyết tâm đứng lên đấu tranh của người da đen đồng thời chứng minh cho chính quyền của người da trắng thấy vấn đề nhức nhối của họ.
Câu 20: Trong đoạn kết của văn bản “Tôi có một ước mơ”., tác giả đã bộc lộ ước mơ gì? Những hình ảnh “tự do ngân vang …” có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc của tác giả?
Trả lời:
- Tác giả đã bộc lộ nhiều ước mơ nhưng có thể tựu trung lại ở câu: “Tôi mơ rằng một ngày kia đất nước của chúng ta sẽ vươn lên và sống đúng ý nghĩa với niềm tin rằng: “Con người sinh ra vốn bình đẳng, điều chúng ta tin là sự thật hiển nhiên””. - Tác giả đã bộc lộ nhiều ước mơ nhưng có thể tựu trung lại ở câu: “Tôi mơ rằng một ngày kia đất nước của chúng ta sẽ vươn lên và sống đúng ý nghĩa với niềm tin rằng: “Con người sinh ra vốn bình đẳng, điều chúng ta tin là sự thật hiển nhiên””.
- Những hình ảnh “Hãy để tự do ngân vang …” giúp đoạn này giống như biến thành một bài ca, thể hiện mạnh mẽ khát vọng của tác giả về một đất nước tự do trên khắp mọi miền. - Những hình ảnh “Hãy để tự do ngân vang …” giúp đoạn này giống như biến thành một bài ca, thể hiện mạnh mẽ khát vọng của tác giả về một đất nước tự do trên khắp mọi miền.
Câu 21: Nhận xét về thái độ, tình cảm của tác giả đối với nước Mỹ qua văn bản “Tôi có một ước mơ”.
Trả lời:
Ta có thể chỉ ra một số chi tiết để đi đến kết luận:
- Tác giả có sự kính trọng đối với vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ Abraham Lincoln. - Tác giả có sự kính trọng đối với vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ Abraham Lincoln.
- Tác giả nói “đất nước của chúng ta” với sự chân thành. - Tác giả nói “đất nước của chúng ta” với sự chân thành.
- Tác giả cho rằng đất nước đó cần phải loại bỏ chế độ phân biệt chủng tộc, tác giả mong muốn một đất nước của sự tự do đối với tất cả công dân. - Tác giả cho rằng đất nước đó cần phải loại bỏ chế độ phân biệt chủng tộc, tác giả mong muốn một đất nước của sự tự do đối với tất cả công dân.
- Tác giả có sự đúng đắn trong đánh giá về người da trắng, có sự nhắc nhở về cách đấu tranh của người da đen sao cho hợp lí. - Tác giả có sự đúng đắn trong đánh giá về người da trắng, có sự nhắc nhở về cách đấu tranh của người da đen sao cho hợp lí.
- Tác giả không hướng tới hành động theo kiểu bạo lực, cực đoan mà hướng tới việc giải quyết bằng hoà bình. - Tác giả không hướng tới hành động theo kiểu bạo lực, cực đoan mà hướng tới việc giải quyết bằng hoà bình.
=> Tác giả yêu nước Mỹ. Bài diễn thuyết cũng như những gì mà tác giả làm là muốn loại bỏ cái xấu xa và đưa đất nước đến với những điều tốt đẹp. Đây là việc làm thường tình của những con người vì dân vì nước.
Câu 22: Theo bạn, quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản “Tôi có một ước mơ” đến nay còn có ý nghĩa không? Hãy lí giải ý kiến của bạn.
Trả lời:
- Quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa vì tình trạng phân biệt chủng tộc hiện nay vẫn đang diễn ra. Hơn nữa, vấn đề không phải chỉ của nước nước Mỹ mà còn là vấn đề toàn cầu. - Quan điểm và ước mơ của tác giả được thể hiện trong văn bản đến nay đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa vì tình trạng phân biệt chủng tộc hiện nay vẫn đang diễn ra. Hơn nữa, vấn đề không phải chỉ của nước nước Mỹ mà còn là vấn đề toàn cầu.
- Dưới đây là một đoạn bài báo ngày 06/04/2021 chứng minh phần nào cho vấn đề này: - Dưới đây là một đoạn bài báo ngày 06/04/2021 chứng minh phần nào cho vấn đề này:
Tình trạng phân biệt chủng tộc luôn tồn tại trong lòng nước Mỹ, càng rõ ràng hơn với những người da màu, những người Mỹ gốc Phi.
Người đàn ông vô cớ đánh đập tàn bạo một phụ nữ lớn tuổi trên 1 con phố ở thành phố New York được camera an ninh ghi lại, chỉ vì bà là người gốc Á. Gần 3.800 vụ bạo lực như thế này đã diễn ra trong 1 năm trở lại đây, khi mà dịch COVID-19 lây lan mạnh mẽ, những người Mỹ gốc Á trở thành nạn nhân vì bị cho là làm lây lan dịch bệnh trong cộng đồng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một phần nguyên nhân.
Ông Steve Cohen - Chủ tịch tiểu ban tư pháp Hạ viện Mỹ về Hiến pháp, quyền công dân và tự do dân sự cho rằng: "Sự căm ghét chống người gốc Á không bắt đầu từ đại dịch COVID-19, và sẽ không kết thúc khi đại dịch kết thúc. Tất cả những gì đại dịch làm là trầm trọng thêm những định kiến chống người châu Á tiềm ẩn vốn có trong lịch sử lâu đời và xấu xí ở Mỹ. Nó cũng là cái cớ để một số người hành động theo những định kiến đó. Trên thực tế, đã có sự phân biệt đối xử chống lại rất nhiều người ở đất nước này, và những điều đó ngày càng nặng nề thêm".
Tình trạng phân biệt chủng tộc luôn tồn tại trong lòng nước Mỹ, càng rõ ràng hơn với những người da màu, những người Mỹ gốc Phi. Vào những ngày cuối tháng 3, dư luận đặc biệt chú ý tới phiên tòa xét xử cựu cảnh sát được cho là đã gây ra cái chết của người đàn ông da màu George Floyd hồi tháng 5/2020. Vụ George Floyd đúng hơn là giọt nước tràn ly bởi tình trạng người gốc Phi bị kỳ thị, nhất là bị cảnh sát kỳ thị, không phải là điều hy hữu ở Mỹ.
Câu 24: Hãy khái quát về giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trả lời:
– Để xã hội tồn tại và phát triển, con người cần phải giao tiếp.
– Con người có thể giao tiếp bằng nhiều loại phương tiện khác nhau (điệu bộ, kí hiệu, hình vẽ, âm nhạc, v.v.). Trong đó, ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.
– Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong những hoạt động cơ bản của con người. Hoạt động này bao gồm hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản. Tạo lập văn bản chính là nói hoặc viết để truyền đạt thông tin. Lĩnh hội văn bản chính là nghe hoặc đọc để tiếp nhận thông tin.
– Có thể thấy trong văn bản có hai loại thông tin chính: thông tin miêu tả và thông tin liên cá nhân. Thông tin miêu tả là những thông tin về một đối tượng, một thế giới nào đó, hiện thực hoặc tưởng tượng. Còn thông tin liền cá nhân là những thông tin thể hiện quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp, được thể hiện kèm theo thông tin miêu tả. Trong giao tiếp, hai loại thông tin này đều quan trọng. Tuy nhiên, tuỳ theo tình huống giao tiếp cụ thể mà loại thông tin này hoặc loại thông tin kia có thể trội hơn, đóng vai trò chính. Chẳng hạn, đối với một bản tin dự báo thời tiết thì thông tin miêu tả là quan trọng, nhưng đối với câu chuyện giữa hai người mới quen nhau ở bến đợi xe buýt thì thông tin liên cá nhân thường quan trọng hơn, trong trường hợp này, người ta nói về thời tiết, về sự kiện A, sự kiện B,... có thể cốt chỉ để thể hiện một sự quan tâm đến nhau, muốn gây thiện cảm với nhau.
Câu 25: Tìm trong văn bản Chí Phèo những đoạn có sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Trả lời:
Một số đoạn trong văn bản Chí Phèo có sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết:
1) Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì nó có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng
vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...
2) Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hơn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!
3) Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy bộ điệu hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại nhăm nhăm cầm cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt rồi mặc thay cha nó, nó có chửi thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ĩ! Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao! Họ bảo nhau: “Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”. Cũng có người hiền lành hơn thì bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc ông lí không có nhà...”. Ông lí đây là ông lí Cường, con giai cụ bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm như rác. Phải ông lí Cường thử có nhà xem nào! Quả nhiên họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát: “Mày muốn lôi thôi gì?... Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?...”. Đã bảo mà! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lí Cường. Lí Cường đã về! Lí Cường đã về! Phải biết... A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang” một cái. Thôi, phải rồi, hắn đập cái chai vào cột cổng... Ô hắn kêu! Hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
Câu 26: Hãy phân tích những nét biểu hiện của ngôn ngữ nói trong bài ca dao sau:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Trả lời:
Bài ca dao thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, nhưng vẫn có những nét biểu hiện của ngôn ngữ nói thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Cần chú ý:
– Hình thức độc thoại (tự nói với bản thân), nhưng vẫn hàm ý đối thoại với người khác: tự xưng là em, dùng hô ngữ: ai ơi.
– Một số hình thức quen thuộc của ngôn ngữ nói: so sánh (thân em như...), cầu khiến (nếm thử mà xem), hư từ ngăn cách chủ ngữ và vị ngữ (từ thì).
Câu 27: Phân tích những ưu thế và giới hạn của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Trả lời:
Những ưu thế và giới hạn của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết:
- Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, người nghe có thể phản hồi để người nói điều chỉnh, sửa đổi. Hoặc hai bên có thể trực tiếp giải quyết những thắc mắc để đi đến những thống nhất chung. Tuy nhiên, do giao tiếp bằng ngôn ngữ nói diễn ra tức thời, mau lẹ nên các phương tiện ngôn ngữ thường không được lựa chọn, gọt giũa kĩ càng. Trong khi đó, người nghe cũng phải tiếp nhận lĩnh hội nhanh nên cũng ít có điều kiện suy ngẫm và phân tích. Ngôn ngữ nói trong văn học là một yếu tố quan trọng để khắc hoạ đặc điểm, tính cách của nhân vật và thúc đẩy tiến trình của câu chuyện. - Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, người nghe có thể phản hồi để người nói điều chỉnh, sửa đổi. Hoặc hai bên có thể trực tiếp giải quyết những thắc mắc để đi đến những thống nhất chung. Tuy nhiên, do giao tiếp bằng ngôn ngữ nói diễn ra tức thời, mau lẹ nên các phương tiện ngôn ngữ thường không được lựa chọn, gọt giũa kĩ càng. Trong khi đó, người nghe cũng phải tiếp nhận lĩnh hội nhanh nên cũng ít có điều kiện suy ngẫm và phân tích. Ngôn ngữ nói trong văn học là một yếu tố quan trọng để khắc hoạ đặc điểm, tính cách của nhân vật và thúc đẩy tiến trình của câu chuyện.
- So với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết và người đọc đều phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, quy tắc tổ chức văn bản. Đồng thời giao tiếp theo hình thức này thường nảy sinh những thắc mắc nhưng những thắc mắc ấy lại không thể giải quyết được tức thì. Ngôn ngữ viết trong văn học đặc biệt hữu dụng trong việc mô tả, kể, thuyết minh, bình luận một cách có tổ chức và hướng câu chuyện đi theo mong muốn của tác giả. - So với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết và người đọc đều phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, quy tắc tổ chức văn bản. Đồng thời giao tiếp theo hình thức này thường nảy sinh những thắc mắc nhưng những thắc mắc ấy lại không thể giải quyết được tức thì. Ngôn ngữ viết trong văn học đặc biệt hữu dụng trong việc mô tả, kể, thuyết minh, bình luận một cách có tổ chức và hướng câu chuyện đi theo mong muốn của tác giả.
Câu 28: Từ bài diễn văn Tôi có một ước mơ, bạn rút ra được bài học gì trong việc tạo lập một văn bản nghị luận giàu sức thuyết phục?
Trả lời:
- Các em đã học đến lớp 11, văn bản nghị luận cũng còn xa lạ, các em cũng đều đã biết khi viết một bài văn nghị luận thì cần có luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Bài diễn thuyết này cũng sử dụng những yếu tố đặc trưng này thôi. Cái mới và cũng là cái đặc sắc của văn bản này nằm ở việc sử dụng các biện pháp tu từ, sự tương tác với người đọc, người nghe, các lĩ lẽ, dẫn chứng được đưa ra đa dạng, xem xét trên nhiều phương diện và điều quan trọng là chỉ ra được những vấn đề cốt lõi, có tính thực tiễn cao. - Các em đã học đến lớp 11, văn bản nghị luận cũng còn xa lạ, các em cũng đều đã biết khi viết một bài văn nghị luận thì cần có luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Bài diễn thuyết này cũng sử dụng những yếu tố đặc trưng này thôi. Cái mới và cũng là cái đặc sắc của văn bản này nằm ở việc sử dụng các biện pháp tu từ, sự tương tác với người đọc, người nghe, các lĩ lẽ, dẫn chứng được đưa ra đa dạng, xem xét trên nhiều phương diện và điều quan trọng là chỉ ra được những vấn đề cốt lõi, có tính thực tiễn cao.
Câu 29: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày điều bạn tâm đắc khi đọc văn bản Tôi có một ước mơ.
Trả lời:
Đây là một bài diễn thuyết xuất sắc và nổi tiếng trên thế giới. Nội dung của văn bản vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Vì thế có nhiều thứ mà các em có thể khai thác từ văn bản này, ví dụ:
- Cách lập luận - Cách lập luận
- Cách diễn đạt giàu hình ảnh, ngôn từ hàm súc - Cách diễn đạt giàu hình ảnh, ngôn từ hàm súc
- Tình trạng phân biệt chủng tộc ở nước Mỹ - Tình trạng phân biệt chủng tộc ở nước Mỹ
- Sức thuyết phục của một bài diễn thuyết đối với công chúng - Sức thuyết phục của một bài diễn thuyết đối với công chúng
- Tư tưởng của tác giả - Tư tưởng của tác giả
…
Câu 30: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nêu suy nghĩ của bạn về luận điểm: Người có tài cần phát huy tài năng của mình để đóng góp cho cộng đồng.
Trả lời:
Hãy trình bày theo suy nghĩ của em. Chú ý tập trung vào chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với cộng đồng. Đoạn văn không cần thiết phải nói đến những điều cao siêu, tầm cỡ như trong bài “Chiếu cầu hiền”, em có thể chỉ cần nói về đóng góp của những cá nhân xuất sắc ở địa phương em.
Tham khảo:
Một người có thể trở thành chủ của một doanh nghiệp, trở thành người đứng đầu một địa phương hay trở thành một lãnh đạo quốc gia là bởi tài năng hơn người của họ. Công ty này hơn công ty kia, đất nước này hơn đất nước kia một phần nằm ở sự vượt trội giữa khả năng của những người đứng đầu. Những điều này cho thấy sự khác biệt to lớn mà người có tài có thể tạo ra. Xưa kia, Thân Nhân Trung có câu nói nổi tiếng: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Câu nói đó từ một thời kì phong kiến lạc hậu cho đến nay là thời kì hiện đại, văn minh vẫn còn nguyên giá trị của nó, điều đó cho thấy tầm quan trọng của người tài đối với cộng đồng, đất nước. Hãy thử suy nghĩ nếu không có người tài hay người tài bị chèn ép thì điều gì sẽ xảy ra. Những thứ xấu sẽ gặp được thời vận để tàn phá mọi thứ và đất nước suy đồi là điều tất yếu. Chính vì thế, người có tài cần phát huy tài năng của mình để đóng góp cho cộng đồng.