Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 4: Tự sự trong truyện thơ dân gian và trong thơ trữ tình (P1)
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 4: Tự sự trong truyện thơ dân gian và trong thơ trữ tình. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức
Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức
ÔN TẬP BÀI 4. TỰ SỰ TRONG TRUYỆN THƠ DÂN GIAN VÀ TRONG THƠ TRỮ TÌNH (PHẦN 1)
Câu 1: Trình bày những hiểu biết của em về bài thơ Thuyền và biển (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- Tác giả: Xuân Quỳnh - Tác giả: Xuân Quỳnh
- Thể thơ: thơ năm chữ - Thể thơ: thơ năm chữ
- Nội dung: Qua câu chuyện ẩn dụ thuyền và biển không thể tách rời, tác giả thể hiện khát vọng về một tình yêu sâu đậm, không bao giờ phai. - Nội dung: Qua câu chuyện ẩn dụ thuyền và biển không thể tách rời, tác giả thể hiện khát vọng về một tình yêu sâu đậm, không bao giờ phai.
Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Xuân Quỳnh.
Trả lời:
- Xuân Quỳnh (1942 – 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội. Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa Đoàn Văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. - Xuân Quỳnh (1942 – 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội. Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa Đoàn Văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III.
- Tác phẩm chính: thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989), Bầu trời trong quá trứng (thơ viết cho thiếu nhi, 1982); truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn (1985). - Tác phẩm chính: thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989), Bầu trời trong quá trứng (thơ viết cho thiếu nhi, 1982); truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn (1985).
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đầm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Năm 2017, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. - Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đầm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Năm 2017, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Câu 3: Hãy trình bày đặc điểm của yếu tố tự sự trong thơ trữ tình.
Trả lời:
- Thơ trữ tình không đặt trọng tâm vào việc kể một câu chuyện, có nhân vật, có tính cách, có bối cảnh không gian và thời gian với rất nhiều chi tiết cụ thể như truyện thơ, mà ưu tiên hàng đầu cho việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, thơ trữ tình không hề chối bỏ yếu tố tự sự, thậm chí, ở sáng tác của một số nhà thơ, yếu tố này khá đậm nét. Đọc một bài thơ trữ tình có yếu tố tự sự, độc giả dễ nhận ra bóng dáng của một câu chuyện, một sự kiện với những đường nét cốt yếu của nó. Câu chuyện lúc này có tác dụng làm nền cho tiếng nói trữ tình và luôn chịu sự chi phối của mạch cảm xúc mà tác giả triển khai. Do vậy, các câu chuyện thường chỉ được “kể” ở mức độ vừa đủ để cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ trọn vẹn. - Thơ trữ tình không đặt trọng tâm vào việc kể một câu chuyện, có nhân vật, có tính cách, có bối cảnh không gian và thời gian với rất nhiều chi tiết cụ thể như truyện thơ, mà ưu tiên hàng đầu cho việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, thơ trữ tình không hề chối bỏ yếu tố tự sự, thậm chí, ở sáng tác của một số nhà thơ, yếu tố này khá đậm nét. Đọc một bài thơ trữ tình có yếu tố tự sự, độc giả dễ nhận ra bóng dáng của một câu chuyện, một sự kiện với những đường nét cốt yếu của nó. Câu chuyện lúc này có tác dụng làm nền cho tiếng nói trữ tình và luôn chịu sự chi phối của mạch cảm xúc mà tác giả triển khai. Do vậy, các câu chuyện thường chỉ được “kể” ở mức độ vừa đủ để cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ trọn vẹn.
Câu 4: Em hãy Hình dung về bối cảnh câu chuyện Lời tiễn dặn.
Trả lời:
Bối cảnh của câu chuyện là cô gái và chàng trai yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Cô gái phải đi lấy người khác và chàng trai muốn đến đưa tiễn cô để nói lời từ biệt cùng tấm lòng son sắt. Họ ngồi lại cánh đồng nói chuyện và ai cũng mang theo tâm trạng không nỡ rời đi.
Câu 5: Hãy tóm tắt nội dung văn bản Lời tiễn dặn.
Trả lời:
Văn bản gồm hai phần, ứng với hai không gian tâm trạng nối tiếp nhau của chàng trai.
Phần 1: Tâm trạng của chàng trai (và gián tiếp là tâm trạng của cô gái qua sự mô tả của chàng trai trên đường tiễn dặn).
a) Đó là tâm trạng đầy mâu thuẫn nửa như buộc phải chấp nhận sự thật đau xót là cô gái đã có chồng, nửa như muốn níu kéo tình yêu, kéo dài giây phút âu yếm bên nhau.
b) Đó còn là lòng quyết tâm giữ trọn tình yêu giữa chàng trai với cô gái.
Phần 2: Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái.
a) Cử chỉ:
− Vỗ về, an ủi cô gái lúc bị nhà chồng đánh đập, hắt hủi.
– Lam thuốc cho cô gái uống.
b) Tâm trạng:
– Nỗi xót xa, niềm thương cảm mà chàng trai dành cho cô gái.
– Ý chí mãnh liệt của chàng trai nhất quyết sẽ giành lại tình yêu để đoàn tụ cùng cô gái.
Câu 6: Lời kể trong đoạn trích Lời tiễn dặn là lời của ai? So với một số tác phẩm viết bằng văn xuôi đã học, lời kể ở đây có điểm gì đặc biệt?
Trả lời:
- Lời kể trong đoạn trích là lời của chàng trai. - Lời kể trong đoạn trích là lời của chàng trai.
- So với các tác phẩm văn xuôi thì lời kể ở truyện thơ này khác ở chỗ là được viết thành từng câu thơ, vì viết bằng thơ nên chỉ giữ lại được phần nào tính chất kể. Một điểm nữa là lời kể trong đoạn trích có sự kết hợp mạnh mẽ với yếu tố trữ tình (mang phong cách thơ). - So với các tác phẩm văn xuôi thì lời kể ở truyện thơ này khác ở chỗ là được viết thành từng câu thơ, vì viết bằng thơ nên chỉ giữ lại được phần nào tính chất kể. Một điểm nữa là lời kể trong đoạn trích có sự kết hợp mạnh mẽ với yếu tố trữ tình (mang phong cách thơ).
Câu 7: Hãy nhận xét về nghệ thuật của đoạn trích Lời tiễn dặn.
Trả lời:
Những điểm cần lưu ý:
- Sự kết hợp giữa nghệ thuật trữ tình (mô tả cảm xúc, tâm trạng) với nghệ thuật tự sự (kể sự việc, hành động) - Sự kết hợp giữa nghệ thuật trữ tình (mô tả cảm xúc, tâm trạng) với nghệ thuật tự sự (kể sự việc, hành động)
- Truyện thơ đã kế thừa truyền thống nghệ thuật của ca dao trữ tình, sử dụng một cách nghệ thuật lời ăn tiếng nói của nhân dân. - Truyện thơ đã kế thừa truyền thống nghệ thuật của ca dao trữ tình, sử dụng một cách nghệ thuật lời ăn tiếng nói của nhân dân.
- Các câu thơ sử dụng dày đặc các phép tu từ đặc sắc (như điệp từ, điệp ngữ) vừa tạo nên nhạc tính rắt réo cho câu thơ, vừa góp phần đắc lực tạo hình ảnh thơ. - Các câu thơ sử dụng dày đặc các phép tu từ đặc sắc (như điệp từ, điệp ngữ) vừa tạo nên nhạc tính rắt réo cho câu thơ, vừa góp phần đắc lực tạo hình ảnh thơ.
Câu 8: Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Thuyền và biển (Xuân Quỳnh).
Trả lời:
Bài thơ Thuyền và Biển là bài thơ trữ tình. Trong đó, thuyền và biển là hình ảnh là biểu trưng cho cảm xúc của những đôi lứa yêu nhau. Bài thơ thể hiện tâm trạng nhớ nhung, buồn đau của tháng ngày xa cách, là ước nguyện luôn được gắn bó, bền chặt bên nhau. Bài thơ là lời nhắn gửi những người đang yêu xa hãy luôn nghĩ và hướng về nhau để giữ vững niềm tin, hy vọng về một ngày tương phùng.
Câu 9: Nêu giá trị nội dung “Thuyền và biển”
Trả lời:
Giá trị nội dung:
Thuyền và Biển không chỉ là đối tượng chủ thể trữ tình mà hình ảnh đó còn là biểu trưng cho cảm xúc của những đôi lứa yêu nhau. Đó là tâm trạng nhớ nhung, buồn đau của tháng ngày xa cách, là ước nguyện luôn được gắn bó, bền chặt bên nhau. Bài thơ là lời nhắn gửi những người đang yêu xa hãy luôn nghĩ và hướng về nhau để giữ vững niềm tin, hy vọng về một ngày hội ngộ
Câu 10: Nêu giá trị nghệ thuật Thuyền và biển
Trả lời:
- Bài thơ Thuyền và biển được sáng tác theo thể thơ năm chữ.
- Lời thơ chân thật, sâu sắc. Hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm, giúp người đọc dễ hình dung và cảm thụ được tâm tư, tình cảm.
- thông điệp của tác giả gửi gắm thông qua câu thơ.
- Sử dụng biện pháp ẩn dụ hình ảnh Thuyền và biển để nói về đôi lứa đang yêu xa.
- Điệp cấu trúc “Chỉ có.. mới, những ngày không gặp nhau” nhằm nhấn mạnh, thể hiện nỗi nhớ xa cách trong tình yêu.
- Giọng thơ nhẹ nhàng, trìu mến, thân thương thể hiện nỗi buồn, xót xa, nhớ thương khi 2 người yêu nhau phải cách xa.
Câu 11: Câu sau đây mắc lỗi gì về thành phần câu? Hãy đưa ra cách sửa.
“Với tác phẩm này đã thể hiện tài năng của một cây bút truyện ngắn bậc thầy.”
Trả lời:
– Câu trên mắc lỗi câu thiếu chủ ngữ. “Với tác phẩm này” là thành phần trạng ngữ. Có thể người viết nhầm đó là chủ ngữ.
– Cách sửa thứ nhất: Dựa vào ngữ cảnh để bổ sung chủ ngữ phù hợp. Chẳng hạn: Với tác phẩm này, nhà văn đã thể hiện tài năng của một cây bút truyện ngắn bậc thầy.
– Cách sửa thứ hai: Lược bỏ quan hệ từ ở đầu câu để bộ phận đứng sau đó trở thành chủ ngữ: Tác phẩm này đã thể hiện tài năng của một cây bút truyện ngắn bậc thầy.
Câu 12: Câu sau đây mắc lỗi gì về thành phần câu? Hãy đưa ra cách sửa.
“Lục bát, một thể thơ “đặc sản” có từ lâu của người Việt.”
Trả lời:
– Câu trên mắc lỗi câu thiếu vị ngữ. Trong câu trên, có thể coi “lục bát” là chủ ngữ, “một thể thơ “đặc sản” có từ lâu của người Việt” là thành phần chêm xen, giải thích cho đối tượng được nói đến ở chủ ngữ chứ không phải là vị ngữ. Kiểu lỗi này có thể do người viết nhầm thành phần chêm xen là vị ngữ.
– Cách sửa thứ nhất: Thêm từ “là” để biến thành phần chêm xen thành vị ngữ: Lục bát là một thể thơ “đặc sản” có từ lâu của người Việt.
– Cách sửa thứ hai: Giữ nguyên thành phần chêm xen, dựa vào ngữ cảnh để bổ sung vị ngữ phù hợp: Lục bát – một thể thơ “đặc sản” có từ lâu của người Việt – đã được tác giả sử dụng hết sức nhuần nhuyễn.
Câu 13: Câu sau đây mắc lỗi gì về thành phần câu? Hãy đưa ra cách sửa.
“Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng như thế.”
Trả lời:
– Câu trên mắc lỗi câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ. Đây mới chỉ là một cụm từ, chưa hề có nội dung thông tin, vì thế, chưa phải là câu.
– Cách sửa: Dựa vào ngữ cảnh, bổ sung thành phần nòng cốt để hoàn thành câu. Ví dụ: Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng như thế, tôi không thể chần chừ.
Câu 14: Có các cách chữa nào đối với một câu thiếu chủ ngữ? Cho ví dụ.
Trả lời:
Đối với câu thiếu chủ ngữ, có các cách chữa như sau:
– Thêm chủ ngữ vào câu
– Biến một thành phần nào đó trong câu (thường là trạng ngữ) thành chủ ngữ của câu;
– Biến vị ngữ thành một cụm chủ – vị.
Ví dụ:
Câu "Qua tác phẩm "Tắt đèn" cho chúng ta thấy hình ảnh người phụ nữ nông dân dưới chế độ cũ." là câu thiếu chủ ngữ có các cách chữa như sau:
– Thêm chủ ngữ: Qua tác phẩm "Tắt đèn", tác giả (Ngô Tất Tố) đã cho chúng ta thấy hình ảnh người phụ nữ nông dân dưới chế độ cũ.
– Biến trạng ngữ thành chủ ngữ: Tác phẩm "Tắt đèn" cho chúng ta thấy hình ảnh người phụ nữ nông dân dưới chế độ cũ.
Câu 15: Có các cách chữa nào đối với một câu thiếu vị ngữ? Cho ví dụ.
Trả lời:
Đối với câu thiếu vị ngữ, có các cách chữa sau:
– Thêm vị ngữ vào câu;
– Biến cụm từ đã cho thành một cụm chủ – vị;
– Biến cụm từ đã cho thành một bộ phận của vị ngữ.
Ví dụ:
Câu "Quyển sách bố tôi mới mua hôm qua." là câu thiếu vị ngữ có các cách chữa như sau:
– Thêm vị ngữ: Quyển sách bố tôi mới mua hôm qua rất hay.
– Biến câu sai thành một bộ phận của vị ngữ: Đây là quyển sách bố tôi mới mua hôm qua.
* Lưu ý: Những cách chữa đã nêu (cả phần thiếu chủ ngữ) thuần tuý mang tính chất biến đổi ngữ pháp. Việc sử dụng cách chữa nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý định diễn đạt của người nói. Do vậy, khi chữa câu, phải chú ý tìm hiểu ý định của người nói, từ đó mới đề xuất được cách chữa đúng.
Câu 16: Hãy trình bày những hiểu biết của em về bài thơ Dương phụ hành (tác giả, thể loại, nội dung,…)
Trả lời:
- Tác giả: Cao Bá Quát - Tác giả: Cao Bá Quát
- Thể loại: Bài thơ được viết theo thể hành. - Thể loại: Bài thơ được viết theo thể hành.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được ông sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844. - Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được ông sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844.
- Nội dung: Qua việc miêu tả tinh tế, tác giả đã tái hiện một hình ảnh người thiếu phụ Tây dương khác biệt hoàn toàn so với người thiếu phụ Việt Nam lúc bấy giờ để qua đó thể hiện sự tiếp thu tư tưởng mới, hiện đại, thoát khỏi lối tư duy Nho giáo lỗi thời của tác giả. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ nỗi niềm của bản thân. - Nội dung: Qua việc miêu tả tinh tế, tác giả đã tái hiện một hình ảnh người thiếu phụ Tây dương khác biệt hoàn toàn so với người thiếu phụ Việt Nam lúc bấy giờ để qua đó thể hiện sự tiếp thu tư tưởng mới, hiện đại, thoát khỏi lối tư duy Nho giáo lỗi thời của tác giả. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ nỗi niềm của bản thân.
Câu 17: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Cao Bá Quát.
Trả lời:
- Cao Bá Quát (1808 – 1855) quê ở huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội. Ông nổi tiếng học rộng, tài cao, đỗ cử nhân sớm (1831) nhưng lận đận trên con đường làm quan. Năm 1841, khi làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên, vì vi phạm quy định nghiêm ngặt của việc chấm bài, Cao Bá Quát bị khép tội chết, sau đó được giảm án, cho theo phục dịch phái bộ đi công cán một số nước vùng Hạ Châu (In-đô-nê-xi-a – Indonesia, Ma-lai-xi-a – Malaysia,...) để chuộc tội. Chuyến đi này đã tác động lớn đến nhận thức, tư tưởng của ông khi được tiếp xúc với nền văn minh khác, với những màu sắc mới của cuộc sống nơi xứ lạ, phương xa. - Cao Bá Quát (1808 – 1855) quê ở huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội. Ông nổi tiếng học rộng, tài cao, đỗ cử nhân sớm (1831) nhưng lận đận trên con đường làm quan. Năm 1841, khi làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên, vì vi phạm quy định nghiêm ngặt của việc chấm bài, Cao Bá Quát bị khép tội chết, sau đó được giảm án, cho theo phục dịch phái bộ đi công cán một số nước vùng Hạ Châu (In-đô-nê-xi-a – Indonesia, Ma-lai-xi-a – Malaysia,...) để chuộc tội. Chuyến đi này đã tác động lớn đến nhận thức, tư tưởng của ông khi được tiếp xúc với nền văn minh khác, với những màu sắc mới của cuộc sống nơi xứ lạ, phương xa.
- Năm 1852, Cao Bá Quát phải rời kinh đô, nhận chức Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Năm 1854, ông tham gia lãnh đạo phong trào nông dân khởi nghĩa ở Mỹ Lương và bị tử trận. Triều đình nhà Nguyễn đã ra lệnh “tru di tam tộc” với dòng họ Cao. - Năm 1852, Cao Bá Quát phải rời kinh đô, nhận chức Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Năm 1854, ông tham gia lãnh đạo phong trào nông dân khởi nghĩa ở Mỹ Lương và bị tử trận. Triều đình nhà Nguyễn đã ra lệnh “tru di tam tộc” với dòng họ Cao.
- Cao Bá Quát sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Sau bản án thảm khốc với dòng họ Cao, tác phẩm của ông bị tiêu huỷ, cấm đoán nhưng vẫn còn lại 1 327 bài thơ chữ Hán, hơn 20 tác phẩm viết bằng chữ Nôm (phú, hát nói, truyện,...). Thơ văn Cao Bá Quát rất phong phú về đề tài, thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với gia đình, quê hương; đồng cảm với những thân phận cùng khổ. Ông mang đến cái nhìn nhân văn, tinh thần dân chủ của một nghệ sĩ có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, sẵn sàng đón nhận và trân trọng những nét đẹp mới mẻ, xa lạ với truyền thống. - Cao Bá Quát sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Sau bản án thảm khốc với dòng họ Cao, tác phẩm của ông bị tiêu huỷ, cấm đoán nhưng vẫn còn lại 1 327 bài thơ chữ Hán, hơn 20 tác phẩm viết bằng chữ Nôm (phú, hát nói, truyện,...). Thơ văn Cao Bá Quát rất phong phú về đề tài, thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với gia đình, quê hương; đồng cảm với những thân phận cùng khổ. Ông mang đến cái nhìn nhân văn, tinh thần dân chủ của một nghệ sĩ có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, sẵn sàng đón nhận và trân trọng những nét đẹp mới mẻ, xa lạ với truyền thống.
Câu 18: Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết và những ý tứ được mở ra từ câu thơ này của “Dương phụ hành”.
Trả lời:
- Câu cuối thật bất ngờ. Nó có sức mạnh thu hút bảy câu trước về phía mình. Bởi đó là phát ngôn chính thức của chủ thể trữ tình. Phát ngôn này mang hai ý nghĩa: một là xác định sự đồng cảm về điều được miêu tả vừa nói, và hai là bộc lộ tình cảm riêng tư. Vào một đêm trăng sáng, lẻ loi trên con thuyền nơi đất khách, trông thấy vợ chồng người ta quấn quýt bên nhau, thì ai mà chẳng chạnh niềm riêng? Hẳn lúc này nhà thơ đang nghĩ đến người vợ, đến mái ấm gia đình ở quê nhà. Dù chỉ nói về mình một câu, và nói theo cách rất chung (Há có biết rằng, có người Nam đang ở cảnh biệt li), cũng là đủ. Vì bối cảnh (trạng thái, thời gian, không gian,...) đã nói hộ rồi. - Câu cuối thật bất ngờ. Nó có sức mạnh thu hút bảy câu trước về phía mình. Bởi đó là phát ngôn chính thức của chủ thể trữ tình. Phát ngôn này mang hai ý nghĩa: một là xác định sự đồng cảm về điều được miêu tả vừa nói, và hai là bộc lộ tình cảm riêng tư. Vào một đêm trăng sáng, lẻ loi trên con thuyền nơi đất khách, trông thấy vợ chồng người ta quấn quýt bên nhau, thì ai mà chẳng chạnh niềm riêng? Hẳn lúc này nhà thơ đang nghĩ đến người vợ, đến mái ấm gia đình ở quê nhà. Dù chỉ nói về mình một câu, và nói theo cách rất chung (Há có biết rằng, có người Nam đang ở cảnh biệt li), cũng là đủ. Vì bối cảnh (trạng thái, thời gian, không gian,...) đã nói hộ rồi.
Câu 19: Bài thơ có đảm bảo những thi luật của thơ Đường luật không?
Trả lời:
- Bài thơ được làm theo thể hành, một thể thơ cổ phong, không hạn định về độ dài, chỉ cần có vấn điệu mà không cần đối nhau, cũng không cần tuân theo niêm luật. - Bài thơ được làm theo thể hành, một thể thơ cổ phong, không hạn định về độ dài, chỉ cần có vấn điệu mà không cần đối nhau, cũng không cần tuân theo niêm luật.
- Theo luật của thơ Đường thì chữ thứ 2 ở dòng 2 phải là thanh trắc, chứ thứ 2 ở dòng 4 phải là thanh bằng,… => Luật bằng trắc không đảm bảo. - Theo luật của thơ Đường thì chữ thứ 2 ở dòng 2 phải là thanh trắc, chứ thứ 2 ở dòng 4 phải là thanh bằng,… => Luật bằng trắc không đảm bảo.
Câu 20: Chỉ ra chỗ sai trong những câu dưới đây và nêu lên cách chữa:
a) Mỗi khi đi qua cầu Long Biên.
b) Bằng khối óc sáng tạo và bàn tay lao động của mình, chỉ trong vòng sáu tháng.
Trả lời:
a) "Mỗi khi đi qua cầu Long Biên." chưa thành một câu. Chưa có chủ ngữ và vị ngữ; mới chỉ có phần trạng ngữ.
– Cách chữa: thêm chủ ngữ và vị ngữ cho câu. Ví dụ: Mỗi khi đi qua cầu Long Biên, tôi đều say mê ngắm nhìn màu xanh của bãi mía, bãi dâu, bãi ngô, vườn chuối.
b) Tương tự, câu "Bằng khối óc sáng tạo và bàn tay lao động của mình, chỉ trong vòng sáu tháng." chưa thành một câu. Chưa có chủ ngữ và vị ngữ; mới chỉ có phần trạng ngữ (hai trạng ngữ).
– Cách chữa: thêm chủ ngữ và vị ngữ cho câu. Ví dụ: Bằng khối óc sáng tạo và bàn tay lao động của mình, chỉ trong vòng sáu tháng, công nhân nhà máy X đã hoàn thành 60% kế hoạch năm.
Câu 21: Từ câu chuyện giữa thuyền và biển, bạn suy nghĩ như thế nào về vấn đề “hiểu”, “biết” và “gặp” trong tình yêu đôi lứa?
Trả lời:
Hãy trả lời dựa trên suy nghĩ và trải nghiệm của em.
Ví dụ: Qua câu chuyện này, em thấy một tình yêu đẹp, sâu đậm có được khi những điều như “hiểu”, “biết”, “gặp” luôn đi cùng nhau, luôn tồn tại giữa hai người. “Hiểu”, “biết” để giúp đôi lứa gia tăng tình cảm, tránh những vấn đề không đáng có. “Gặp” để có được niềm vui và làm tăng thêm tình cảm gắn bó.
Câu 22: Nêu nhận xét về sự lồng ghép hai câu chuyện trong bài thơ Thuyền và biển. Số dòng thơ được dành cho từng câu chuyện được phân bố theo tỉ lệ nào? Bạn suy nghĩ gì về điều này?
Trả lời:
- Bài thơ là sự lồng ghép hai câu chuyện: mối liên kết thuyền và biển – tình yêu của em và anh. Sự lồng ghép này giúp cho bài thơ giàu sức biểu cảm, tạo cho người đọc nhiều liên tưởng đồng thời cũng giúp cho bài thơ trở nên thú vị hơn. - Bài thơ là sự lồng ghép hai câu chuyện: mối liên kết thuyền và biển – tình yêu của em và anh. Sự lồng ghép này giúp cho bài thơ giàu sức biểu cảm, tạo cho người đọc nhiều liên tưởng đồng thời cũng giúp cho bài thơ trở nên thú vị hơn.
- Tất cả dòng thơ nói về thuyền và biển thì đều gián tiếp nói về em và anh. => - Tất cả dòng thơ nói về thuyền và biển thì đều gián tiếp nói về em và anh. => Số dòng thơ được dành cho từng câu chuyện được phân bố theo tỉ lệ 1:1. => Điều này cho thấy tác giả đã có một sự liên hệ hợp lí, thú vị, giàu hình ảnh để có thể lồng ghép hai câu chuyện thành một bài thơ đặc sặc.
Câu 23: Phân tích khổ thơ thứ sáu “Thuyền và biển”.
Trả lời:
- Khổ thơ có thể chia thành hai nửa: 2 câu đầu và 2 câu sau - Khổ thơ có thể chia thành hai nửa: 2 câu đầu và 2 câu sau
- “Chỉ có”: nhấn mạnh tình yêu của đôi ta: chỉ anh hiểu em và chỉ em hiểu anh. - “Chỉ có”: nhấn mạnh tình yêu của đôi ta: chỉ anh hiểu em và chỉ em hiểu anh.
- Chú ý sự tiếp nối hợp lí: khí nói về biển, tác giả miêu tả sự mênh mông, rộng lớn thì khi nói về thuyền, tác giả nói về chuyện đi lại, biển biết thuyền đi, về nơi đâu trên không gian rộng lớn đó. - Chú ý sự tiếp nối hợp lí: khí nói về biển, tác giả miêu tả sự mênh mông, rộng lớn thì khi nói về thuyền, tác giả nói về chuyện đi lại, biển biết thuyền đi, về nơi đâu trên không gian rộng lớn đó.
Câu 24: Phân tích ba khổ thơ cuối “Thuyền và biển”.
Trả lời:
- Chỉ ra việc gặp gỡ là quan trọng đến thế nào trong tình yêu - Chỉ ra việc gặp gỡ là quan trọng đến thế nào trong tình yêu
- Chú ý những hình ảnh gợi cảm xúc mạnh cho người đọc: “bạc đầu thương nhớ”, “lòng đau – rạn vỡ”. Những hình ảnh cũng cho thấy khả năng liên tưởng phong phú của tác giả: “bạc đầu” chỉ sóng, “rạn vỡ” chỉ việc thuyền hỏng hóc - Chú ý những hình ảnh gợi cảm xúc mạnh cho người đọc: “bạc đầu thương nhớ”, “lòng đau – rạn vỡ”. Những hình ảnh cũng cho thấy khả năng liên tưởng phong phú của tác giả: “bạc đầu” chỉ sóng, “rạn vỡ” chỉ việc thuyền hỏng hóc
- Hai khổ thơ cuối vẫn duy trì sự đi đôi, tuy nhiên sự khác biệt ở đây là ở khổ cuối tác giả đã trực tiếp dùng anh – em thay cho biển – thuyền nhưng vẫn giữ lại hình ảnh khốc liệt “bão tố” => tác dụng - Hai khổ thơ cuối vẫn duy trì sự đi đôi, tuy nhiên sự khác biệt ở đây là ở khổ cuối tác giả đã trực tiếp dùng anh – em thay cho biển – thuyền nhưng vẫn giữ lại hình ảnh khốc liệt “bão tố” => tác dụng
Câu 25: Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây).
Trả lời:
Văn bản nói về người đàn bà Phương Tây, qua đó gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.
Câu 26: Em hãy nêu giá trị nội dung của bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây).
Trả lời:
- Văn bản nói về người đàn bà Phương Tây, qua đó gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.
- Ẩn sâu sau bài thơ là sự giãi bày, chia sẽ này cũng là một trong những phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc ẩn sâu trong tâm hồn của người trí thức phóng khoáng, ngang tàng của người thi sĩ.
- Dương phụ hành là một tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm bên trong con người, không phân biệt màu da, tôn giáo ấy là nỗi niềm khát khao về một gia đình hạnh phúc, ấm áp, mong ước có được tình cảm gần gũi giữa vợ chồng. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện một góc nhìn mới, một cái nhìn thật nhân văn, ấy là người phụ nữ có quyền được chở che, được nũng nịu và được thương yêu sau tất cả những gì họ hi sinh cho gia đình.
Câu 27: Em hãy nêu giá trị nghệ thuật của bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây).
Trả lời:
- Ngôn ngữ trong thơ chắc nịch, mạnh mẽ, linh hoạt, giàu sắc thái biểu cảm và mang đậm tính cá nhân, bản lĩnh của tác giả.
Câu 28: a) Cho biết mỗi bộ phận in đậm trong câu sau nói về ai.
“Hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa, ta thấy dượng Hương Thư ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh, hùng vĩ.”
b) Câu trên sai như thế nào? Nêu cách chữa lỗi.
Trả lời:
a) Cách sắp xếp như trong câu đã cho làm cho người đọc hiểu phần in đậm trước dấu phẩy (Hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa) miêu tả hành động của chủ ngữ trong câu (ta). Như vậy, đây là câu sai về mặt nghĩa.
b) Chữa lại như sau:
– Ta thấy dượng Hương Thư, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa, ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ.
Hoặc:
– Ta thấy dượng Hương Thư ghì trên ngọn sào, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa, giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ.
Câu 29: Trong phần 1 của đoạn trích (từ "Quảy gánh qua đồng rộng" đến "khi goá bụa về già"), chàng trai đã dặn cô gái những gì? Hãy so sánh những lời dặn dò ở phần 2 (sau khi bị người chồng hành hạ) với những lời dặn dò ở phần 1 của đoạn trích.
Trả lời:
a) Lời tiễn dặn ở phần đầu nổi bật một chữ đợi. Lời dặn dò đó cũng là lời hẹn ước của chàng trai.
– Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ: "đợi tới tháng năm lau nở", "Đợi mùa nước đỏ cá về", "Đợi chim tăng ló hót gọi hè",...
– Thời gian chờ đợi được tính bằng cả đời người: "Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông - Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già".
Chàng trai đã ước hẹn chờ đợi cô gái trong mọi thời gian, mọi tình huống. Bước đi của thời gian được diễn tả bằng những hình ảnh quen thuộc, bình thường, thuần phác của cuộc sống dân tộc: tháng năm lau nở, mùa nước đỏ cá về, chim tăng ló hót gọi hè,... Những hình ảnh đó đã phần nào phác hoạ tình cảm chân thực, bền chắc của chàng trai dân tộc Thái.
Tuy nhiên, đợi có nghĩa là chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó; đợi nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn dò đó thể hiện tình nghĩa thuỷ chung, tình yêu sâu sắc, bất tử của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất lực, đành chấp nhận tập tục, chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.
b) Những lời tiễn dặn ở phần 2 của đoạn trích
- Theo phong tục hồn nhiên và giàu nhân văn của người Thái, nếu đôi nam nữ yêu nhau mà không lấy được nhau, họ sẽ thành anh em bè bạn, gần thì thỉnh thoảng thăm nhau, xa xôi thì hằng năm có những phiên chợ tình, họ tìm về chơi chợ, gặp gỡ chia sẻ vui buồn cùng nhau. Chàng trai trong truyện thơ này tiễn người yêu về tận nhà chồng, ở lại đó một thời gian, dặn dò cô "hết lời hết lẽ" để mong cô thành người dâu thảo: - Theo phong tục hồn nhiên và giàu nhân văn của người Thái, nếu đôi nam nữ yêu nhau mà không lấy được nhau, họ sẽ thành anh em bè bạn, gần thì thỉnh thoảng thăm nhau, xa xôi thì hằng năm có những phiên chợ tình, họ tìm về chơi chợ, gặp gỡ chia sẻ vui buồn cùng nhau. Chàng trai trong truyện thơ này tiễn người yêu về tận nhà chồng, ở lại đó một thời gian, dặn dò cô "hết lời hết lẽ" để mong cô thành người dâu thảo:
Bậc thang cuối nhà chồng, chớ ngồi, Ghế chị chồng ngồi, chớ đụng,
Anh chồng đẹp, đừng lả lơi,
Không phải bạn tình, đừng ngấp nghé,
Giã gạo đừng chửi lợn,
Chăn lợn đừng chửi gà...
- Nhưng đến thăm nhà chồng cô gái, anh bị đặt vào hoàn cảnh thật trớ trêu, đau khổ. Yêu mà không thể lấy được nhau, hơn nữa, yêu mà phải bó tay nhìn người yêu bị đánh đập, hành hạ. Đó chính là hoàn cảnh dẫn đến lời tiễn dặn của chàng trai ở phần cuối đoạn trích. - Nhưng đến thăm nhà chồng cô gái, anh bị đặt vào hoàn cảnh thật trớ trêu, đau khổ. Yêu mà không thể lấy được nhau, hơn nữa, yêu mà phải bó tay nhìn người yêu bị đánh đập, hành hạ. Đó chính là hoàn cảnh dẫn đến lời tiễn dặn của chàng trai ở phần cuối đoạn trích.
- Nếu lời tiễn dặn ở phần đầu nổi bật một chữ - Nếu lời tiễn dặn ở phần đầu nổi bật một chữ đợi, thì lời tiễn dặn ở phần cuối nổi bật chữ cùng với mong muốn thoát khỏi tập tục để gắn bó: đôi ta cùng gỡ, ta vuốt lại, ta trôi nổi ao chung, chung một mái song song, ta thương nhau, ta yêu nhau,...
- Chứng kiến cảnh người yêu bị hành hạ, anh cảm thông, săn sóc cô bằng lời lẽ và hành động chia sẻ hết mực yêu thương: "Dậy đi em", "Đầu bù anh chải cho", "Tóc rối đưa anh búi hộ!", "Lam ống thuốc này em uống khỏi đau",... Trong lời nói đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời lẽ chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn. - Chứng kiến cảnh người yêu bị hành hạ, anh cảm thông, săn sóc cô bằng lời lẽ và hành động chia sẻ hết mực yêu thương: "Dậy đi em", "Đầu bù anh chải cho", "Tóc rối đưa anh búi hộ!", "Lam ống thuốc này em uống khỏi đau",... Trong lời nói đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời lẽ chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn.
è Tuy hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả hai lời đều thể hiện tình yêu sâu sắc, thuỷ chung và quyết tâm vượt mọi trở ngại để gắn bó.
è Lời chàng trai cũng là lời truyện thơ, lời các tác giả dân gian Thái, thấm nhuần tình cảm nhân đạo, đầy yêu thương, thông cảm với số phận của cô gái cũng như của những người phụ nữ Thái xưa.
Câu 30: Tại sao có thể nói những lời tiễn dặn tha thiết của chàng trai trong truyện chính là những lời phản kháng tập tục hôn nhân của dân tộc Thái xưa?
Trả lời:
Thái độ phản kháng tập tục hôn nhân và khát vọng tự do yêu đương của chàng trai, cô gái Thái:
- Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục Thái, để cùng người yêu sống chết bên nhau. Trong nguyên bản tiếng Thái có đoạn: - Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục Thái, để cùng người yêu sống chết bên nhau. Trong nguyên bản tiếng Thái có đoạn:
Tai xam pi lón cãng mã hỏi
Tai xáp xỏi pên nặm tạng cóp mã kin
Tai pên đin puk pũ mã kẹo
Tại pên hẻo chí xốn hồm nong
Tai pên chong lính chuỗn huồm thuổi
Tai puối xảu xóp lẹo chắng dú hưỡn điêu.
- - Tai dịch sang tiếng Việt là "chết", tai pên là "chết thành". Hình ảnh cái chết được lặp lại sáu lần, cũng là sáu lần anh khẳng định sự gắn bó. Không thể sống xa nhau, hãy sống cùng nhau cho đến chết, dù phải chết cũng nguyện được chết cùng nhau. Cái chết là sự thử thách tột cùng đối với con người, tình yêu mãnh liệt của anh vượt qua cả thử thách đó. Nói đến cái chết chính là nói đến khát vọng mãnh liệt được sống cùng nhau.
- Nguyên nhân chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện chính là do tập tục hôn nhân gả bán, cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận cho con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ chính là những lời tố cáo, phản kháng tập tục hôn nhân Thái ngày xưa, tập tục đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ. - Nguyên nhân chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện chính là do tập tục hôn nhân gả bán, cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận cho con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ chính là những lời tố cáo, phản kháng tập tục hôn nhân Thái ngày xưa, tập tục đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.
- Trong lời tiễn dặn nổi bật mong muốn được "cùng chết" của chàng trai. Điều đó thể hiện tình yêu nồng nàn, mãnh liệt của anh, cũng chính là thái độ phản kháng lại hoàn cảnh. Xã hội không để cho những người yêu nhau được sống bên nhau là một xã hội bất công, vô lí, cần phải thay đổi. - Trong lời tiễn dặn nổi bật mong muốn được "cùng chết" của chàng trai. Điều đó thể hiện tình yêu nồng nàn, mãnh liệt của anh, cũng chính là thái độ phản kháng lại hoàn cảnh. Xã hội không để cho những người yêu nhau được sống bên nhau là một xã hội bất công, vô lí, cần phải thay đổi.
- Những lời tiễn dặn cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được giải phóng, được sống trong tình yêu của các chàng trai, cô gái Thái: - Những lời tiễn dặn cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được giải phóng, được sống trong tình yêu của các chàng trai, cô gái Thái:
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe.
- Câu thơ gọn, chắc, nghệ thuật sử dụng từ láy có tác dụng khẳng định khát vọng tự do yêu đương và quyết tâm trước sau như một, không gì thay đổi được của chàng trai. Khát vọng đó như được khắc vào gỗ, tạc vào đá. - Câu thơ gọn, chắc, nghệ thuật sử dụng từ láy có tác dụng khẳng định khát vọng tự do yêu đương và quyết tâm trước sau như một, không gì thay đổi được của chàng trai. Khát vọng đó như được khắc vào gỗ, tạc vào đá.
- Kết thúc truyện thơ là sự trở về đoàn tụ trong hạnh phúc của hai người sau bao trắc trở, đó là bằng chứng về thắng lợi của tình yêu chân chính, của tự do, đối lập với những luật lệ khắt khe, hà khắc trói buộc con người. - Kết thúc truyện thơ là sự trở về đoàn tụ trong hạnh phúc của hai người sau bao trắc trở, đó là bằng chứng về thắng lợi của tình yêu chân chính, của tự do, đối lập với những luật lệ khắt khe, hà khắc trói buộc con người.
è Những kết thúc có hậu như vậy trong truyện thơ các dân tộc và truyện thơ Thái không nhiều, nhưng nó mang lại niềm tin tưởng, lạc quan, tiếp thêm sức mạnh cho những đôi lứa yêu nhau vượt qua trở ngại để được sống hạnh phúc, nó đã rọi chiếu ánh sáng hi vọng và niềm tin vào cuộc sống vốn ảm đạm của đồng bào dân tộc Thái ngày xưa. Đó là lí do khiến truyện thơ Tiễn dặn người yêu được người Thái các thế hệ yêu quý và tự hào.