Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức Ôn tập bài 7: Ghi chép và tưởng tượng trong kí (P1)

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 7: Ghi chép và tưởng tượng trong kí. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 kết nối tri thức

Xem: => Giáo án ngữ văn 11 kết nối tri thức

ÔN TẬP BÀI 7. GHI CHÉP VÀ TƯỞNG TƯỢNG TRONG KÍ (PHẦN 2)

Câu 1: Tính chất tươi mới, sống động của thực tế đời sống con người vùng Đất Mũi được thể hiện qua những khung cảnh, nhân vật nào?

Trả lời:

Tính chất tươi mới, sống động của thực tế đời sống con người vùng Đất Mũi được thể hiện qua những khung cảnh, nhân vật như:

+ Những con người Cà Mau luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và vất vả với cuộc sống.  + Những con người Cà Mau luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và vất vả với cuộc sống. 

+ Họ phải chịu nhiều thiên tai và đối mặt với sự thiếu thốn vật chất. + Họ phải chịu nhiều thiên tai và đối mặt với sự thiếu thốn vật chất.

+ Tuy nhiên họ luôn tỏ ra vui vẻ và lạc quan, vẫn rất hiếu khách và chất phác.  + Tuy nhiên họ luôn tỏ ra vui vẻ và lạc quan, vẫn rất hiếu khách và chất phác. 

→ Đó chính là thứ níu chân tác giả tại nơi đây.

Câu 2: Đến với Mũi Cà Mau, tác giả liên tưởng đến những nhà thơ, nhà văn nào đã có duyên nợ với vùng đất này?

Trả lời:

Đến với Mũi Cà Mau, tác giả liên tưởng đến những nhà thơ, nhà văn đã có duyên nợ với vùng đất này là Nguyễn Tuân, Anh Đức và Xuân Diệu.

Câu 3: Nêu nhận xét của bạn về cách sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp tu từ trong tác phẩm Cà Mau quê xứ

Trả lời:

Qua bài tản văn có thể thấy tác giả đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ bằng câu hỏi tu từ như để thỏa mãn những thắc mắc của mình về mảnh đất và con người nơi ấy, đồng thời qua đó gửi gắm tình cảm của mình vào trong với ngôn từ mang đậm chất tản văn.

Câu 4: Dưới ngòi bút tác giả, sắc màu riêng của vùng Đất Mũi hiện lên như thế nào?

Trả lời:

Dưới ngòi bút tác giả, sắc màu riêng của vùng Đất Mũi hiện lên vừa mang chất hiện thực vừa mang chất trữ tình. 

Câu 5: Câu thơ nào sử dụng hình thức đảo ngữ để phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường?

  • a. Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
  • b. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
  • c. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Câu a đảo vị ngữ “lắt lẻo” lên trước chủ ngữ “cành thông”, câu b đảo trạng ngữ “trước giậu” vào giữa câu, câu c đảo vị ngữ “lơ thơ” lên trước chủ ngữ “cồn nhỏ” đều để nhấn mạnh vào tính chất và vị trí của sự vật.

Câu 6: Tìm các câu cao dao, thành ngữ hoặc tục ngữ có hiện tượng phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường.

Trả lời:

Căng da bụng, chùng da mắt.

Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành. 

Câu 7: Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trang kết hợp từ "buồn điệp điệp” ở câu thơ “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp” (Tràng Giang – Huy Cận).

Trả lời:

"Điệp điệp” gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Từ láy “điệp điệp” vốn được dùng để chỉ những sự vật có số lượng nhiều và nối tiếp nhau như núi trùng trùng điệp điệp → chỉ những ngọn núi nhấp nhô nối tiếp nhau từ dãy núi này đến dãy núi khác. Nhưng ở đây, tác giả sử dụng từ “điệp điệp” không phải để chỉ sự vật mà để chỉ nỗi buồn của nhân vật trữ tình. Theo đó, người đọc có thể hiểu tác giả đang rơi vào một tâm trạng buồn với nỗi buồn kéo dài bất tận. Từ đó giúp người đọc dễ dàng hiểu được tâm lý của nhân vật trữ tình nhờ vào sự kết hợp từ khéo léo để đưa ra một sự thể hiện sâu sắc nhất, đúng nhất và độc đáo nhất về nỗi buồn của nhân vật trữ tình. 

Câu 8: Biện pháp đảo ngữ trong câu thơ sau có vai trò gì?

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”

Trả lời:

Biện pháp đảo ngữ từ vị ngữ đảo lên trước chủ ngữ ở từ lao xao

Tác dụng: Diễn tả âm thanh cuộc sống huyên náo và nhộn nhịp

Câu 9: Nội dung chính của văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ” là gì?

Trả lời:

Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.

Câu 10: Thời điểm và những sự kiện ban đầu nào xảy ra được lưu giữ trong kí ức của nhân vật trong văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ”?

Trả lời:

Thời điểm: học xong lớp một vào tháng Năm năm 41 và bố mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên Gô-rô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk). 

Sự kiện: mới bơi được một lần, hai ngày sau chiến tranh, đưa lên tàu và chở đi, máy bay Đức bay trên đầu còn chúng tôi hò reo

Câu 10: Toàn bộ câu chuyện “Và tôi vẫn muốn mẹ” được kể bởi một người vì chiến tranh mà đã phải nếm trải những ngày tháng đau thương ở tuổi ấu thơ, tác giả chỉ là người ghi lại. Vậy trong việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò gì? Phân tích thái độ của tác giả khi ghi lại các sự kiện mà nhân chứng kể lại.

Trả lời:

Những kí ức về chiến tranh được lưu giữ qua ký ức của những đứa trẻ vừa chân thực, nhưng cũng đầy khốc liệt. Dưới cái nhìn của nhân vật tôi đó là bức tranh nhiều màu sắc có chút ngây ngô của trẻ con, có cả tình yêu thương sâu sắc dành cho gia đình. Việc tạo lập văn bản này, tác giả đóng vai trò làm người kể chuyện. Những câu chuyện mà nhân vật tôi kể, không có những khung cảnh gia đình áp, ở đó toàn sự chia ly xa cách. Nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được sự yêu thương của nhân vật tôi dành cho cha mẹ, cũng như của cha mẹ dành cho nhân vật tôi. Thứ tình cảm đó khắc sâu vào tâm trí của tác giả theo nhân vật tận đến sau này. Đó là thứ tình cảm khát khao dai dẳng đi theo suốt những năm tháng trưởng thành của  nhân vật tôi. Tựa đề câu chuyện là “Và tôi vẫn muốn mẹ…” cho thấy thứ tình cảm mãnh liệt tình mẫu tử. Khi nhân vật tôi chỉ là một đứa trẻ, tình yêu lớn nhất là dành cho gia đình của mình. Dù có đói khát thì chúng vẫn không khóc lóc mà chỉ khóc khi nhớ đến mẹ của mình. Tận khi lớn lên thì thứ tình cảm đó vẫn không mất đi. Dù có không còn chiến tranh, cuộc sống đủ đầy thì thứ tình cảm đó vẫn ăn sâu nảy mầm trong tâm trí của nhân vật tôi.

Câu 11: Trong bài Tì bà của Bích Khê, hai câu thơ cuối được tác giả viết như sau:

Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. 

(Bích Khê, Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, 1939). 

Ở một số bản in về sau, hai câu thơ trên đã có một biến đổi: 

Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. 

(Thơ Bích Khê, Sở văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, 1988). 

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, theo bạn, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là gì? Dựa vào bản in bài thơ năm 1939, hãy làm rõ sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ ở điểm này.

Trả lời:

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là do tác giả đã phát hiện ra một nét nghĩa mới về câu thơ. 

Theo bản in năm 1939, ở đây tác giả đang muốn nói đến sự trở lại của nỗi buồn trong tác giả, tưởng như vô hình nhưng thực ra nó vẫn tồn tại khiến tác giả thốt ra lời cảm thán “Ô!”. Nỗi buồn đó đang cùng với cây ngô đồng rải xuống những cánh hoa vàng theo gió thu. Phải chăng là “thu mênh mông” hay chính là nỗi buồn mênh mông của tác giả. Câu thơ này khiến chúng ta xúc động, thương cảm đối với sự tài hoa của Bích Khê. 

Nhưng đến bản dịch năm 1988, người dịch đã bỏ dấm chấm hỏi đi và để câu thơ thành “Ô hay buồn vương cây ngô đồng…”. Cách viết như vậy nhằm thể hiện một sự chắc chắn, khẳng định của tác giả. Nếu từ “Ô! Hay…” gợi lên cảm giác về một nỗi buồn còn mơ hồ, không biết là thực hay hư thì đến bản dịch này, người dịch dường như khẳng định nỗi buồn đó chính là của tác giả một nỗi buồn miên man, mênh mông bao trùm lên cảnh vật.

Câu 12: Phân tích giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở câu thơ "Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa" trên cơ sở liên hệ đến chức năng thông thường của dấu hai chấm trong văn bản.

Trả lời:

Giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở dòng thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”: Tác giả đã bổ sung chức năng mới cho dấu câu, diễn tả hai hình ảnh đối lập nhau. Dấu hai chấm không chỉ đơn thuần để ngắt câu mà nó còn mang dụng ý nghệ thuật sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn không gian bao la, bát ngát đến vô tận. Con chim lẻ loi đơn độc này dường như đang mang một gánh nặng, một bóng chiều trong mình, không chỉ trong cảm xúc, mà còn trong dòng chảy nghệ thuật đang tiến trên trang giấy.

Câu 13: Nêu những hiểu biết của em về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Trả lời:

* Tác giả:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, ông từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ chủ yếu bằng hoạt động văn nghệ. - Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, ông từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ chủ yếu bằng hoạt động văn nghệ.

- Là nhà văn có sở trường về kí, trong đó, tùy bút là thể loạiin đậm dấu ấn sáng tạo của ông. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường nổi bật ở chất tài hoa, lịch lãm, ở những suy tư sâu sắc về văn hóa, lịch sử, ở ngôn ngữ mềm mại, tinh tế, đầy những liên tưởng bất ngờ, tạo được sự kết nối đa chiều với nhiều văn bản khác.  - Là nhà văn có sở trường về kí, trong đó, tùy bút là thể loạiin đậm dấu ấn sáng tạo của ông. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường nổi bật ở chất tài hoa, lịch lãm, ở những suy tư sâu sắc về văn hóa, lịch sử, ở ngôn ngữ mềm mại, tinh tế, đầy những liên tưởng bất ngờ, tạo được sự kết nối đa chiều với nhiều văn bản khác.

* Tác phẩm:

- Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được trích từ tập sách cùng tên xuất bản lần đầu năm 1984.  - Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được trích từ tập sách cùng tên xuất bản lần đầu năm 1984.

Câu 14: Chủ đề của văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Trả lời:

Sông Hương vùng thượng lưu:

- Tên gốc: A Pàng → dòng sông tựa như đời người, nó đã chở đầy phận người từ thuở giọt địa chất sinh ra (Sử thi buồn)  - Tên gốc: A Pàng → dòng sông tựa như đời người, nó đã chở đầy phận người từ thuở giọt địa chất sinh ra (Sử thi buồn)

- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn  - Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn 

- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng″ (màu sắc rực rỡ  - Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng″ (màu sắc rực rỡ 

- Như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại (so sánh), rừng già đã hun đúc một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng; cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng để khi ra khỏi rừng, nó mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa. - Như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại (so sánh), rừng già đã hun đúc một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng; cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng để khi ra khỏi rừng, nó mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa.

 

Câu 15: Về phương diện nghệ thuật, những yếu tố nào đã làm nên vẻ đẹp và sự hấp dẫn của bài bút kí đặc sắc này?

Trả lời:

Thể loại bút kí

- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. - Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

- Sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sử am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tườn - Sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sử am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tườn

- Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú và những trải nghiệm của bản thân - Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú và những trải nghiệm của bản thân

- Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: - So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, ... - Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: - So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, ...

- Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương. - Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.

Câu 16: Trình bày những hiểu biết của em về thể loại bút ký.

Trả lời:

- Bút ký là thể loại thuộc loại hình ký thường có quy mô tương ứng với truyện ngắn. Bút ký khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút ký không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực. - Bút ký là thể loại thuộc loại hình ký thường có quy mô tương ứng với truyện ngắn. Bút ký khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút ký không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực.

- Bút ký ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút ký tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm khám phá ra những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Nói cách khác giá trị hàng đầu của bút ký là giá trị nhận thức. - Bút ký ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút ký tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm khám phá ra những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Nói cách khác giá trị hàng đầu của bút ký là giá trị nhận thức.

- Bút ký có thể thuộc về văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tùy theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng. - Bút ký có thể thuộc về văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tùy theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đối với công chúng.

- Bút ký có thể thiên về khái quát các hiện tượng đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại trên, tác giả chú ý nhiều đến việc điển hình hóa những tính cách bằng nhiều biện pháp nghệ thuật như xây dựng cốt truyện (tuy không chặt chẽ như trong truyện ngắn, nhất là không có xung đột duy nhất), sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình… thì trường bút ký chính luận thường nổi lên những hiện tượng của đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt được cái thực chất bên trong của chúng để mô tả nó một cách chính xác, sinh động, có kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của nhân vật, phân tích, đánh giá cuộc sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị luận, châm biếm, hài hước thường được sử dụng - Bút ký có thể thiên về khái quát các hiện tượng đời sống có vấn đề, hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại trên, tác giả chú ý nhiều đến việc điển hình hóa những tính cách bằng nhiều biện pháp nghệ thuật như xây dựng cốt truyện (tuy không chặt chẽ như trong truyện ngắn, nhất là không có xung đột duy nhất), sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình… thì trường bút ký chính luận thường nổi lên những hiện tượng của đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt được cái thực chất bên trong của chúng để mô tả nó một cách chính xác, sinh động, có kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của nhân vật, phân tích, đánh giá cuộc sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị luận, châm biếm, hài hước thường được sử dụng

Câu 17: Kể tên những tác phẩm văn học viết về con sông quê hương mà em biết. Nêu cảm nhận của em về hình ảnh những dòng sông quê hương trong văn học.

Trả lời:

Những tác phẩm văn học viết về con sông quê hương mà em biết:

+ Người lái đò sông Đà + Người lái đò sông Đà

+ Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà + Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà

+ Phú sông Bạch Đằng + Phú sông Bạch Đằng

+ Sông Hương + Sông Hương

+ Nhớ Hồ Tây + Nhớ Hồ Tây

+ Sông nước Cà Mau + Sông nước Cà Mau

+ Trên hồ Ba Bể + Trên hồ Ba Bể

+ Hồ Ba Bể + Hồ Ba Bể

+ Nhớ con sông quê hương (Sông Thu Bồn) + Nhớ con sông quê hương (Sông Thu Bồn)

+ Qua Sông Thu Bồn + Qua Sông Thu Bồn

+ Tràng Giang + Tràng Giang

Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các nhà thơ, nhà văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung đại hướng tâm hồn mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, tửu - những thú vui tao nhã ở đời thì những tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của mình về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước, của con người trong thời đại đổi mới. Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những di sản thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy. Sông nước hiện diện ở khắp mọi nơi trên mảnh đất Việt Nam và ai cũng mang trong mình hình ảnh một con sông quê hương, một dòng sông tuổi thơ, dù có “quá nửa đời phiêu dạt” vẫn khát khao trở về, trở về để “úp mặt vào dòng sông quê” (Nguyễn Trọng Tạo), vào lòng mẹ bao dung vô bờ… Dòng sông với dòng nước chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm bút và sáng tạo nghệ thuật.

Câu 18: Các hiện tượng phá vỡ quy tắc  ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học gồm mấy hiện tượng? Nêu đặc điểm của từng hiện tượng.

Trả lời:

- Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm lạ hóa đối tượng được nói đến - Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm lạ hóa đối tượng được nói đến

- Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện - Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện

- Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề câp. Đồng thời bổ sung chức năng mới cho dấu câu khi trình bày văn bản trên giấy. - Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề câp. Đồng thời bổ sung chức năng mới cho dấu câu khi trình bày văn bản trên giấy.

Câu 19: Viết đoạn văn nêu với chủ đề tự chọn trong đó có hiện tượng phá vỡ nguyên tắc ngôn ngữ thông thường.

Trả lời:

Tình yêu quê hương là một tình yêu thường trực trong tâm hồn mỗi con người. Bởi quê hương là nơi ta sinh ra, lớn lên và có những kỉ niệm về một tuổi thơ êm đềm. Quê hương gắn với những chiều ngả mình trên lưng trâu, lim dim đôi mắt nhìn bầu trời xanh và lắng nghe tiếng sáo diều. Quê hương gắn với những cánh cò, những rặng tre rì rào, những cánh đồng lúa chín thơm vàng ửng. Quê hương gắn với ngọt ngào lời ru của bà, êm đềm tiếng khua nước trên sông, vi vu tiếng sáo diều trên triền đê vào mỗi buổi chiều tà. Tình yêu quê hương còn là tình cảm gắn bó với giang sơn, đất nước, với lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc. Quê hương nào không là một phần máu thịt của tổ quốc, giang sơn. Yêu quê hương là một biểu hiện của lòng yêu Tổ quốc. Dựng xây quê hương cũng là một cách xây dựng đất nước mình, cho đất nước ngày một giàu đẹp hơn. Tình yêu quê hương, đất nước là cội nguồn của những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn mỗi con người. Yêu quê hương đất nước không chỉ là yêu vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình của những danh lam thắng cảnh mà còn là tình yêu, niềm tự hào với nền văn hoá, văn hiến, với lịch sử hào hùng của dân tộc. Chúng ta có quyền tự hào về những chiến công vang dội trong quá khứ, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ gìn bản sắc dân tộc suốt mấy nghìn năm lịch sử. Là một người con Việt Nam, ghi nhớ lời Bác Hồ dạy “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Vì vậy mỗi chúng ta phải biết trân trọng những hy sinh lớn lao ấy, trân trọng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng một đất nước Việt Nam ngày một giàu đẹp sánh vai với các cường quốc trên trường quốc tế.

Câu 20: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích ý nghĩa hai câu cuối trong văn bản: "Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ".

Trả lời:

Hai câu cuối trong văn bản “Và tôi vẫn  muốn có mẹ” đã gợi cho chúng ta rất nhiều những suy ngẫm sâu sắc. Chiến tranh trong câu chuyện mà tác giả nhắc đến là cuộc chiến chống phát xít Đức cướp mất hàng chục triệu con người Liên Xô và nó được tái hiện thông qua kí ức của nhân vật “tôi”. Tác giả đã khai thác từ kí ức tuổi thơ của nhân vật tôi khi đã trường thành. “Tôi” đã từng là một cậu bé, những chết chóc, mất mát, tang thương in hằn lên kí ức, ám ảnh suốt cuộc đời. Chiến tranh đã lùi xa vào qua khứ nhưng những tổn thương trong tâm hồn, sự thiếu vắng tình yêu thương là những nỗi đau hằn lên trái tim họ mãi mãi. Dù là năm tuổi, mười lăm tuổi hay năm mươi mốt tuổi và thậm chí là quãng đời còn lại, khát khao vòng tay yêu thương của mẹ cũng luôn cháy bỏng. Từ đó, tác giả đã chứng minh rằng chiến tranh dù với bất cứ lí do gì cũng là phi nhân tính, là tàn ác và không thể nào biện bạch.

Câu 21: Qua văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ”, nêu cảm nhận của em về chiến tranh trong mắt trẻ thơ?

Trả lời:

Văn bản “Và tôi vẫn muốn mẹ” đã chạm đến một khía cạnh rất mới khi viết về đề tài chiến tranh đó là khai thác từ những kí ức trẻ thơ. Đa phần những đứa trẻ đều không biết đến chiến tranh là thế nào trước khi chiến tranh tìm đến chúng, thậm chí chúng không hiểu ý nghĩa của hai từ “chết chóc”. Lần đầu tiên, chúng bị đẩy vào thế giới của người lớn, cố gắng đi tìm ba mẹ mình mặc dù đã thấy ba mẹ mình bị giết vì nghĩ chỉ là thất lạc. Trong văn bản, ta thấy sự đối lập giữa sự hồn nhiên của trẻ thơ với bản chất tàn nhẫn của chiến tranh được dẫn dắt qua nhiều cung bậc cảm xúc từ bình lặng, ngỡ ngàng, đến đau đớn, khao khát… “Và tôi vẫn muốn có mẹ” là giọng nói được cất lên cuối văn bản không chỉ của nhân vật tôi mà là tiếng nói đại diện cho những đứa trẻ trong chiến tranh, những giọng nói hơn nửa thế kỷ vẫn quặn thắt trong lòng những nhân chứng chờ được cất lên. Những cô bé, cậu bé đã trưởng thành nhưng khi nhắc đến mảng kí ức về chiến tranh, “cái người lớn” trong họ như được gột sạch, nước mắt trẻ thơ luôn nặng hơn mọi lý lẽ có thể dẫn ra để bào chữa cho chiến tranh.

Câu 22: Hãy chia sẻ câu chuyện cảm động nói về tình cảm của mẹ con mà bạn từng biết qua các tác phẩm nghệ thuật (văn học, sân khấu, điện ảnh,...)

Trả lời:

Truyện ngắn “Trở dạ” của tác giả Lê Thị Kim Sơn là những mảnh kí ức lẫn lộn đan xen giữa những cơn đau đẻ của cô gái Dịu. Chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi đau chiến tranh vẫn còn đó trong cuộc đời Dịu. Cha Dịu tham gia chiến trường chống Mỹ và bị nhiễm chất độc da cam. Di chứng đến đời thứ 3 mới thấy khi đứa bé trong bụng Dịu bị dị tật. Ngay từ những ngày ấu thơ, những cơn điên dại vì vết thương chiến tranh của cha đã ám ảnh Dịu. Và giờ đây khi cô mang thai thì nỗi đau đó càng đau nhức. Với giọng văn góc cạnh, dữ dội bởi hình ảnh đan xen quá khứ, thực tại, tác giả thế hiện nỗi đau đớn cả tinh thần và thể xác của nhân vật Dịu. Cô phải đấu tranh nội tâm ghê gớm giữa việc giữ lại hay bỏ cái thai đi. Mang thai, sinh con là thiên chức và cũng là niềm hạnh phúc của mỗi người phụ nữ. Mỗi sinh linh khi được thai nghén đều có quyền được sống, được cuộc đời chào đón. Tuy sợ hãi nhưng cuối cùng tình yêu mãnh liệt của người mẹ khiến Dịu quyết định sẽ giữ đứa con lại. Một quyết định dũng cảm bởi một tương lai không biết như thế nào đang đón đợi cô phía trước. Truyện ngắn viết về cơn trở dạ của một người phụ nữ nhưng thể hiện nỗi đau của chiến tranh với những người lính và gia đình của họ. Chiến tranh đã kết thúc, đất nước đã hòa bình nhưng đâu đó trên đất nước vẫn còn người hi sinh, thương tật vì bom đạn trong lòng đất. Vẫn còn biết bao tiếng khóc, nỗi đau khóc như cô gái Dịu khi chịu di chứng da cam ác độc. Không khí truyện ngắn khá u ám, ảm đạm với nhiều hình ảnh, cảm xúc tiêu cực. Nhưng phần cuối truyện với tiếng khóc chào đời của đứa bé có lẽ là tia sáng thắp lên một tương lai.

Câu 23: Nhận xét về cách thể hiện cảm xúc của tác giả ở đoạn văn cuối bài từ “Tôi về … mắt tôi chợt cay nhòe”.

Trả lời:

Ở đoạn văn cuối văn bản “Cà Mau quê xứ”, hình ảnh “cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn” vừa nhắc đến cách thức tạo ra loại than đước đặc trưng của vùng đất Cà Mau, vừa là cách nói hình tượng để diễn tả cảm xúc của tác giả khi rời khỏi Mũi Cà Mau. Để tạo ra than đước phải hầm từ thân cây đước, than “đượm bền hơi lửa và không hề có khói”, không có khói nhưng tác giả vẫn thấy mắt “chợt cay nhòe”. Người đọc nhận thấy sự xúc động, quyến luyến, bịn rịn không nỡ rời xa mảnh đất thân thương này của tác giả.

 

Câu 24: Nêu cảm nhận của bạn về mảnh đất Cà Mau trong văn bản “Cà Mau quê xứ”.

Trả lời:

Trong văn bản “Cà Mau quê xứ”, Cà Mau hiện lên vừa chân thực, vừa sinh động. Mảnh đất Cà Mau đã để thương, để nhớ trong nhưng trang thơ, trang văn của nhiều nghệ sĩ, nhưng không phải là những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp mà là một Cà Mau của quá khứ thời chiến tranh với “ngôn ngang xác giặc, hầm chông loang máu xình lầy, những đoàn người tranh đấu…”. Nơi đây đã trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong văn của Nguyễn Ngọc Tư, Cà Mau lại hiện lên là “xứ bùn sình rừng rú”, trong thơ Nguyễn Bính, Cà Mau là “Quê nhà xa lắc xa lơ”. Mảnh đất này đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, mỗi người nghệ sĩ đến với mảnh đất này lại có cho mình một hình dung riêng về Cà Mau. Cuộc sống ở Cà Mau chủ yếu gắn với sông nước, với biển cả với những “ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển” nhìn xuống thấy cả đàn cá bơi lượn lờ, hải sản mà đặc biệt là ghẹ đem đến nguồn lợi kinh tế cho cư dân nơi đây. Cà Mau được tái hiện trong văn bản với quá khứ đau thương trong chiến tranh cho đến cuộc sống hiện tại của con người, từ việc buôn bán ghẹ của người dân cho đến sinh hoạt văn hóa tâm linh là đền thờ Bà Chúa Xứ. Đây là một mảnh đất yên bình, khiến cho những ai đã từng đặt chân đến đều quyến luyến, không nỡ rời xa.

Câu 25: Kể tên những tác phẩm viết về Cà Mau mà bạn biết, nêu cảm nhận về hình ảnh Cà Mau ở tác phẩm mà bạn ấn tượng nhất.

Trả lời:

Những tác phẩm văn học viết về Cà Mau:

- Nguyễn Ngọc Tư - Cánh đồng bất tận . - Nguyễn Ngọc Tư - Cánh đồng bất tận .

- Đoàn Giỏi - Sông nước cà mau - Đoàn Giỏi - Sông nước cà mau

- Sơn Nam - Hương rừng cà mau. - Sơn Nam - Hương rừng cà mau.

- Đỗ Tuyết Mai - Cỏ dại  - Đỗ Tuyết Mai - Cỏ dại 

- Nguyễn Ngọc Tư - Ngọn ngọn đèn không tắt . - Nguyễn Ngọc Tư - Ngọn ngọn đèn không tắt .

“Sông nước Cà Mau” của Đoàn Giỏi đã tái hiện hình ảnh một Cà Mau vừa chân thực, vừa sinh động. Tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên Cà Mau, đây là một vùng đất vô cùng rộng lớn, mênh mông có sông ngòi, kênh rạch chi chít như mạng nhện. Thiên nhiên nơi đây hoang dã, phong phú mà gần gũi với đời sống của con người. Người dân Cà Mau đặt tên kênh rạch căn cứ vào đặc điểm riêng của từng chốn chứ không dùng những danh từ mĩ miều, hoa lệ, giản dị chân chất như chính con người nơi đây. Nổi bật nhất trong tác phẩm có lẽ là dòng sông Năm Căn, một dòng sông mang vẻ đẹp riêng mà không nơi nào có được gắn liền với rừng đước hai bên tạo nên vẻ đẹp tựa như một khu rừng nguyên sinh huyền bí, hoang sơ. Cuối cùng, Đoàn Giỏi đưa người đọc đến với vùng chợ Nổi Năm Căn nổi tiếng. Không gian đông vui, nhộn nhịp, tấp nập hiện ra trước mắt chúng ta, thuyền chở đầy hàng hóa đa dạng và phong phú, mọi người buôn bán tấp tập, vui vẻ. Người ở khắp nơi đổ về chợ Nổi, sự đa dạng không chỉ đến từ hàng hóa mà còn từ trang phục, tiếng nói của các dân tộc Hoa, Miên… Dọc theo dòng Năm Căn, tác giả Đoàn Giỏi đã đưa người đọc vào hành trình cảm nhận, khám phá cảnh sắc độc đáo của vùng sông nước Cà Mau. Qua ngòi bút tác giả, mỗi nơi con thuyền lướt qua đều vô cùng đẹp đẽ, thú vị. Những cảnh sắc qua mỗi trang văn đều rất đỗi chân thực, thôi thúc những ai từng đọc cái khao khát được đặt chất đến vùng cực Nam của Tổ quốc để tận hưởng và cảm nhận tất thảy vẻ đẹp nơi đây.

Câu 26: Em hãy nêu giá trị nghệ thuật của bài "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em).

Trả lời:

Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích cho chúng ta thấy được một bức tranh hiện thực về chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, mang trong mình những tình cảm thiêng liêng. Từ đó, ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn. 

Câu 27: Em hãy nêu giá trị nghệ thuật của bài "Và tôi vẫn muốn mẹ" (Trích Những nhân chứng cuối cùng - Solo cho giọng trẻ em).

Trả lời:

Giá trị nghệ thuật

- Truyện kí một thể loại mang đậm dấu ấn về khắc họa nhân vật - Truyện kí một thể loại mang đậm dấu ấn về khắc họa nhân vật

- Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm - Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm

- Câu từ dễ hiểu và hợp lí - Câu từ dễ hiểu và hợp lí

Câu 28: Trong văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, có hai phương diện đáng chú ý: những thông tin khách quan về sông Hương và cảm xúc của tác giả về con sông này. Theo bạn, nội dung nào nổi trội hơn? Cơ sở nào giúp bạn xác định như vậy?

Trả lời:

*Một cái tôi uyên bác

- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương. - Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương.

- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại. - Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại.

*Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn

- Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng.  - Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng. 

- Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú. - Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú.

+ Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh… + Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh…

+ Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau. + Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau.

- Thể hiện  ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.  - Thể hiện  ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương. 

   + Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ).

   + Vốn ngôn ngữ phong phú. + Vốn ngôn ngữ phong phú.

   + Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ.

*Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.

- Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương. - Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương.

- Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết. - Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết.

- Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn. - Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn.

→ Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường: lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. 

Câu 29: Em hãy nêu giá trị nội dung của bài Cà Mau quê xứ (Trích Uống cà phê trên đường của Vũ) Trần Tuấn.

Trả lời:

Tác phẩm là những trải nghiệm của tác giả trên đất mũi Cà Mau và những tình cảm của ông dành cho nơi đây. Qua ngòi bút của tác giả, chúng ta thấy hiện lên trước mắt một bức tranh đặc sắc về vùng đất Cà Mau giản dị đơn sơ mà con người thì chất phác thật thà.

Câu 30: Em hãy nêu giá trị nghệ thuật của bài Cà Mau quê xứ (Trích Uống cà phê trên đường của Vũ) Trần Tuấn.

Trả lời:

- Thể thơ tự do giúp tác giả thể hiện được hết tâm tư vào tác phẩm - Thể thơ tự do giúp tác giả thể hiện được hết tâm tư vào tác phẩm

- Ngôn ngữ thơ hay và giản dị nhưng ấn tượng - Ngôn ngữ thơ hay và giản dị nhưng ấn tượng

- Khắc họa hiện thực chân thật và mang ý nghĩa to lớn. - Khắc họa hiện thực chân thật và mang ý nghĩa to lớn.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay