Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 kết nối Ôn tập bài 4 (P2)

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 Kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 4. Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 Kết nối tri thức.

ÔN TẬP BÀI 4

SỨC SỐNG CỦA SỬ THI

Câu 1: Văn bản thuộc thể loại gì? Hãy trình bày khái niệm và các đặc điểm về thể loại đó

Trả lời:

Văn bản thuộc thể loại sử thi

  • a. Khái niệm
  • b. Đặc điểm

Câu 2: Trình bày bố cục của văn bản Đăm Săn đi bắt nữ thần mặt và nội dung chính từng phần

Trả lời:

- Bố cục: 3 phần - Bố cục: 3 phần

+ Phần 1 (từ "Hai người ra đi" đến "Rừng bà Sun Y Rít sẽ bắt đầu động đất."): + Phần 1 (từ "Hai người ra đi" đến "Rừng bà Sun Y Rít sẽ bắt đầu động đất."):  Đăm Săn đến nhà Đăm Par Kvây.

+ Phần 2 (tiếp theo + Phần 2 (tiếp theo  đến "Tôi về đây.".): Đăm Săn đến nhà Nữ Thần Mặt Trời.

+ Phần 3 (còn lại): Đăm Săn trở về. + Phần 3 (còn lại): Đăm Săn trở về.

Câu 3: Văn bản “Đăm săn đi bắt nữ thần mặt trời” được kể theo ngôi thứ mấy? Việc kể theo ngôi đó có tác dụng gì?

Trả lời:

- Người kể chuyện: ngôi thứ ba, kể từ điểm nhìn bên ngoài, là người kể chuyện hoà mình vào cộng đồng để kể câu chuyện về chàng Đăm Săn.  - Người kể chuyện: ngôi thứ ba, kể từ điểm nhìn bên ngoài, là người kể chuyện hoà mình vào cộng đồng để kể câu chuyện về chàng Đăm Săn.

- Tác dụng: Cách kể này giúp người kể có thể kể chuyện một cách linh hoạt, tư do những gì diễn ra với nhân vật. - Tác dụng: Cách kể này giúp người kể có thể kể chuyện một cách linh hoạt, tư do những gì diễn ra với nhân vật.

Câu 4: Tóm tắt những sự kiện chính trong đoạn trích Đăm Săn đi bắt nữ thần mặt trời.

Trả lời:

- Các sự kiện chính trong đoạn trích - Các sự kiện chính trong đoạn trích

(1)      Đăm Săn rủ Đăm Par Kvây đi bắt Nữ Thần Mặt Trời.

(2)      Đăm Par Kvây khuyên Đăm Săn không nên đi vì đường đi nguy hiểm, Đăm Săn có thể chết trong Rừng Đen.

(3)     Đăm Săn vẫn quyết tâm đến nhà của Nữ Thần Mặt Trời.

(4)      Đăm Săn gặp Nữ Thần Mặt Trời, ngỏ ý muốn lấy nàng làm vợ.

(5)      Nữ Thần Mặt Trời từ chối và khuyên Đăm Săn trở về.

(6)      Đăm Săn trở về và chết trong Rừng Đen.

Câu 5: Tại sao dù biết mình sẽ chết trong Rừng Đen khi mặt trời lên, Đăm Săn vẫn quyết định trở về?

Trả lời:

- Đăm Săn vẫn quyết định trở về dù biết mình có thể sẽ chết. - Đăm Săn vẫn quyết định trở về dù biết mình có thể sẽ chết.

+ +  Nhân vật sử thi là nhân vật hành xử theo nguyên tắc danh dự. Vì vậy, hành động quyết tâm đi bắt Nữ Thần Mặt Trời hay quyết tâm trở về sau khi ý nguyện không thành của Đăm Săn cũng thể hiện nguyên tắc danh dự của người anh hùng Ê-đê.

+ Nhân vật sử thi là nhân vật của cộng đồng. Họ là một phần của xóm làng. Dù có chinh phục miền đất mới, phiêu lưu tới những xứ sở xa xôi, thì nơi chốn thực sự của họ bao giờ cũng là quê hương, cộng đồng của mình. + Nhân vật sử thi là nhân vật của cộng đồng. Họ là một phần của xóm làng. Dù có chinh phục miền đất mới, phiêu lưu tới những xứ sở xa xôi, thì nơi chốn thực sự của họ bao giờ cũng là quê hương, cộng đồng của mình.

Câu 6: Em có nhận xét gì về cái chết của Đăm Săn?

Trả lời:

- Ý nghĩa cái chết của Đăm Săn: - Ý nghĩa cái chết của Đăm Săn:

+ Cái chết của Đăm Săn càng tô đậm phẩm chất dũng cảm, ý chí tự do, quyết tâm mãnh liệt và ý thức về danh dự của người anh hùng, dù có chết cũng không từ bỏ lí tưởng của mình. + Cái chết của Đăm Săn càng tô đậm phẩm chất dũng cảm, ý chí tự do, quyết tâm mãnh liệt và ý thức về danh dự của người anh hùng, dù có chết cũng không từ bỏ lí tưởng của mình.

+ Cái chết là một thách thức mới và cũng là thách thức cao nhất cho ý chí tự do và lòng can đảm của Đăm Săn. Mô tả cái chết của Đăm Săn là nhằm nhấn mạnh sự tái sinh của Đăm Săn trong hình tượng Đăm Săn cháu, người sẽ tiếp nối hành trình của chàng trong phần tiếp theo của sử thi. + Cái chết là một thách thức mới và cũng là thách thức cao nhất cho ý chí tự do và lòng can đảm của Đăm Săn. Mô tả cái chết của Đăm Săn là nhằm nhấn mạnh sự tái sinh của Đăm Săn trong hình tượng Đăm Săn cháu, người sẽ tiếp nối hành trình của chàng trong phần tiếp theo của sử thi.

+ Cái chết của Đăm Săn thể hiện bi kịch của người anh hùng cộng đồng trong hành trình chinh phục của họ. + Cái chết của Đăm Săn thể hiện bi kịch của người anh hùng cộng đồng trong hành trình chinh phục của họ.

Nhận xét:

- Đăm Săn và hành động quyết tâm chinh phục Nữ thần mặt trời biểu trưng cho khát vọng chinh phục những vùng đất mới của cộng đồng; còn là biểu tượng cho xung đột quyền giữa người đàn ông và người phụ nữ trong xã hội mẫu hệ Ê-đê. - Đăm Săn và hành động quyết tâm chinh phục Nữ thần mặt trời biểu trưng cho khát vọng chinh phục những vùng đất mới của cộng đồng; còn là biểu tượng cho xung đột quyền giữa người đàn ông và người phụ nữ trong xã hội mẫu hệ Ê-đê.

Câu 7: Qua việc phân tích nhân vật Đăm Săn và Héc-to, bạn có thể rút ra kinh nghiệm gì để có thể phân tích các nhân vật sử thi?

Trả lời:

Cách phân tích các nhân vật trong sử thi:

Bước 1. Tìm các chi tiết miêu tả hình dáng, hành động, lời nói của nhân vật trong văn bản.

Bước 2. Chỉ ra các phẩm chất, lí tưởng, khát vọng của nhân vật được thể hiện thông qua các chi tiết đó.

Bước 3. Phân tích và đánh giá về cách miêu tả nhân vật, thái độ của người kể đối với nhân vật

Bước 4. Suy luận về ý nghĩa của nhân vật trong việc biểu đạt quan niệm, lí tưởng, khát vọng của cộng đồng.

Bước 5. Đặt nhân vật trong không gian diễn xướng của sử thi để thấy được vai trò, sức sống, ảnh hưởng của nhân vật trong truyền thống văn hoá của cộng đồng.

Câu 8: Tìm các chi tiết thể hiện thái độ của người kể chuyện với nhân vật và câu chuyện được kể. So  sánh thái độ của người kể chuyện trong đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời và thái độ  của người kể chuyện trong đoạn trích Hecto từ biệt Ăng-đrô-mác

Trả lời:

Thái độ của người kể chuyện được miêu tả một cách gián tiếp thông qua các lời kể, lời miêu tả về nhân vật, bằng thủ pháp khoa trương, phóng đại như đã phân tích ở trên, đồng thời cũng được thể hiện một cách trực tiếp qua các ngữ cố định, qua những lời bình luận trực tiếp. Thông qua các chi tiết này, có thể nhận thấy sự ngưỡng mộ, thành kính của người kể chuyện với nhân vật và câu chuyện được kể. Trong trích đoạn Hecto từ biệt Ăng-đrô-mác, ta cũng dễ dàng nhận ra giọng điệu trang nghiêm, thành kính của người kể chuyện thông qua các ngữ cố định. Có sự tương đồng này là bởi sử thi là câu chuyện về quá khứ thiêng liêng, có một khoảng cách tuyệt đối với thế giới hiện tại. Người kể chuyện sử thi là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng những giá trị truyền thống và truyền thụ nó cho đời sau.

Câu 9: Phân tích tác phẩm Đăm Săn đi đi bắt Nữ Thần Mặt Trời.

Trả lời:

Văn học từ bao đời nay, là bản trường ca hát về những mảnh đất xa xôi ngoài chân trời, nơi mà những vẻ đẹp và lí tưởng con người luôn hướng đến. Con người sáng tác ra văn chương để vẽ về những vẻ đẹp của đời sống, nơi con người thực sự thăng hoa và được tôn vinh trong chính bức tranh nghệ thuật mà họ tạo nên . Nghệ thuật luôn là tấm gương chân thật nhất luôn hướng đời mình đến con người, họ là trung tâm của những sức mạnh trên thế giới này, họ có thể làm ra những điều phi thường, họ là những người có lí tưởng cao đẹp. Bởi vì vậy hình tượng con người trong vũ trụ luôn đi đôi với nghệ thuật sáng tạo, đặc biệt là những tác phẩm văn chương chân chính, thứ đã nuôi dưỡng và tạo ra những vẻ đẹp ấy. Không phải từ đời sống mà có thể tạo ra những giá trị hay, mà phải trải qua một quá trình gạn lọc, chưng cất từ trên những trang giấy để từ đó mới xuất hiện những điểm sáng của nghệ thuật được. Lí tưởng sống của con người luôn được đề cao, bởi nó mang tầm vóc của những điều phi thường, là yếu tố cơ bản để kiến tạo nên những điều kì diệu. Phải có lí tưởng, phải có khao khát, ước vọng mới có thể làm nên những việc lớn, chính vì vậy đây là yếu tố được khai thác nhiều trong sáng tạo nghệ thuật. Những lí tưởng bước ra từ bức màn của nghệ thuật luôn là những gì đẹp nhất, không chỉ hình thành từ một cá nhân trong cộng đồng mà nó còn là của tập thể chung. Đăm Săn vượt qua bao nhiêu là khó khăn cách trở, sự can ngăn của vợ, … Chàng Đăm Săn vẫn mang trong mình khát khao được gặp nữ thần mặt trời và bày tỏ mong muốn của mình. “Chàng đi hết rừng rậm đến núi xanh, có tranh xé tay, gai mây đâm chân, không màng ăn uống”, chàng cứ thế trên con chiến mã của mình vẫn tiếp tục lao như bay về phía nơi ở của nữ thần mặt trời với đầy khí thế hừng hực. Chàng phi ngựa như bay qua vùng đất Sáp Đen, chàng cưỡi trên con chiến mã ấy vượt qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu ngọn núi, người và người cứ thế lao vun vút như tên. Chẳng biết mấy ngày đem, Đăm Săn đã nhìn thấy cái chuồng nuôi trâu, cái bãi thả diều ở trời, khí thế hừng hực, lao đi trong không trung. Ta có thể thấy niềm tin trong người anh hùng ấy, anh tin tưởng vào sức mạnh và tài năng của mình, có thể giúp chàng lấy được nữ thần làm vợ, đó không phải là sự viển vông mà ngược lại càng làm cho Đăm Săn ra dáng một người anh hùng với sức mạnh phi thường thực thụ. Đó là lòng dũng cảm, sự quyết tâm và khát vọng của một người anh hùng mang trong mình những lí tưởng lớn lao và vững chãi. Trải qua những chặng đường gian nan, cuối cùng chàng đã đến được nơi ấy, trước mắt chàng là những cảnh vật mà trước giờ chưa bao giờ nhìn thấy ở buôn làng của mình. “Cầu thang trông như cái cầu vồng” , “cối giã gạo bằng vàng, chày cũng bằng vàng”, cái chày thì lấp lánh khiến Đăm Săn không khỏi ngạc nhiên, mình đã là một tù trưởng giàu có nhất ở buôn làng rồi, không thứ gì là không có, vậy mà ở đây nhiều điều mới lạ quá khiến chàng không rời mắt. Đăm Săn xuống ngựa rồi từ từ bước vào nha, khí thế người anh hùng dũng mãnh như toả ra thứ hào quang hào nhoáng lắm, ai ai cũng biết đến sự hiện diện của chàng. “Chàng vươn bước lên cầu thang thì trong nhà người ta đã nghe”, “Chàng vươn người trên sàn hiên thì trong nhà người ta đã nghe”, … sự vĩ đại trong từng hành động của Đăm Săn cũng khiến người ta biết đến. Chàng đi vào nhà rồi ngồi ở giữa gian như một vị thần, sự hiên ngang ấy khiến gia tớ trong nhà ai cũng nhìn, thế là đã đến tai của nữ thần mặt trời. Chàng Đăm Săn mặc một chiếc áo lụa thật đẹp, ở ngoài khoác một chiếc áo chiến trông oai hùng biết bao, “Lông chân như chải, lông đùi như chuốt”, “Tiếng nghe như trống gõ mõ”,… Các tù trường không một ai có một khí thế giống như vậy, cứ ngỡ là thần tiên ở trên trời.ời dân tộc Ê đê đã thực sự thành công khi tái hiện hình ảnh người anh hùng trong xã hội với những lí tưởng cao đẹp khi ước mơ bắt Nữ thần Mặt Trời về làm vợ.

Sử thi là một thể loại văn học vô cùng thú vị, bởi nó mang nhiều yếu tố hoang đường kì ảo nhưng không đánh mất đi những giá trị vốn có, vì bên cạnh những yếu tố ấy những chất liệu để tạo nên một sử thi hay là nhân vật có thật, câu chuyện có thật. Những yếu tố kì ảo chỉ được thêm vào để làm nền và làm nổi bật sự phi thường của người anh hùng. Nhân vật trong sử thi là những người phi phàm đại diện cho lí tưởng cao đẹp của cả một cộng đồng, là người đi tiên phong để mở ra một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp cho mọi người. Một người anh hùng chắc chắn phải lập ra được những chiến công lẫy lừng, vang danh, đó không chỉ là sự hào nhoáng mà còn là những ý nghĩa sâu xa và thế giới nghệ thuật muốn đề cập đến. Đến với Sử thi Đăm Săn, đặc biệt là đoạn trích đi chinh phục nữ thần Mặt Trời, người anh hùng ấy hiện lên với đầy đủ những vẻ sáng của cuộc đời, đó là khát khao của con người về tình yêu và hạnh phúc, về sự chinh phục thiên nhiên và vũ trụ rộng lớn. Chàng Đăm Săn là một hình mẫu cho những điều cao đẹp của một cộng đồng.

Người dân tộc Ê đê thuộc chế độ mẫu hệ, bởi vì vậy, chỉ có người vợ mới được bắt chồng chứ không có những người chồng được bắt vợ, hành động của Đăm Săn và kết quả của hành động ấy đã thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc văn hoá truyền thống của người Ê đê, chính vì vậy tính lịch sử và văn hóa trong tác phẩm sử thi này rất cao và tỉ mỉ. Đăm Săn muốn chinh phục nữ thần mặt trời về làm vợ xuất phát từ mong muốn cho cuộc sống của cộng đồng trở nên ấm no hơn, bởi có được sức mạnh của nữ thần.

Vượt qua bao nhiêu là khó khăn cách trở, sự can ngăn của vợ, … Chàng Đăm Săn vẫn mang trong mình khát khao được gặp nữ thần mặt trời và bày tỏ mong muốn của mình. “Chàng đi hết rừng rậm đến núi xanh, có tranh xé tay, gai mây đâm chân, không màng ăn uống”, chàng cứ thế trên con chiến mã của mình vẫn tiếp tục lao như bay về phía nơi ở của nữ thần mặt trời với đầy khí thế hừng hực. Chàng phi ngựa như bay qua vùng đất Sáp Đen, chàng cưỡi trên con chiến mã ấy vượt qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu ngọn núi, người và người cứ thế lao vun vút như tên. Chẳng biết mấy ngày đem, Đăm Săn đã nhìn thấy cái chuồng nuôi trâu, cái bãi thả diều ở trời, khí thế hừng hực, lao đi trong không trung. Ta có thể thấy niềm tin trong người anh hùng ấy, anh tin tưởng vào sức mạnh và tài năng của mình, có thể giúp chàng lấy được nữ thần làm vợ, đó không phải là sự viển vông mà ngược lại càng làm cho Đăm Săn ra dáng một người anh hùng với sức mạnh phi thường thực thụ. Đó là lòng dũng cảm, sự quyết tâm và khát vọng của một người anh hùng mang trong mình những lí tưởng lớn lao và vững chãi. Trải qua những chặng đường gian nan, cuối cùng chàng đã đến được nơi ấy, trước mắt chàng là những cảnh vật mà trước giờ chưa bao giờ nhìn thấy ở buôn làng của mình. “Cầu thang trông như cái cầu vồng” , “cối giã gạo bằng vàng, chày cũng bằng vàng”, cái chày thì lấp lánh khiến Đăm Săn không khỏi ngạc nhiên, mình đã là một tù trưởng giàu có nhất ở buôn làng rồi, không thứ gì là không có, vậy mà ở đây nhiều điều mới lạ quá khiến chàng không rời mắt. Đăm Săn xuống ngựa rồi từ từ bước vào nha, khí thế người anh hùng dũng mãnh như toả ra thứ hào quang hào nhoáng lắm, ai ai cũng biết đến sự hiện diện của chàng. “Chàng vươn bước lên cầu thang thì trong nhà người ta đã nghe”, “Chàng vươn người trên sàn hiên thì trong nhà người ta đã nghe”, … sự vĩ đại trong từng hành động của Đăm Săn cũng khiến người ta biết đến. Chàng đi vào nhà rồi ngồi ở giữa gian như một vị thần, sự hiên ngang ấy khiến gia tớ trong nhà ai cũng nhìn, thế là đã đến tai của nữ thần mặt trời. Chàng Đăm Săn mặc một chiếc áo lụa thật đẹp, ở ngoài khoác một chiếc áo chiến trông oai hùng biết bao, “Lông chân như chải, lông đùi như chuốt”, “Tiếng nghe như trống gõ mõ”,… Các tù trường không một ai có một khí thế giống như vậy, cứ ngỡ là thần tiên ở trên trời.

Những người tôi tớ của nữ thần cứ hết người này đến người kia, những ánh mắt cứ chăm chăm vào Đăm Săn, càng làm cho chàng trở nên đẹp và dũng mãnh hơn, càng tô điểm thêm cho cốt cách của chàng. Nữ thần Mặt trời cũng không kém, nàng thay không biết bao nhiêu bộ váy để tiếp đón Đăm Săn, cuối cùng nàng cũng đã chọn được chiếc váy ưng ý, “Nàng mặc một váy ánh như sét, loáng như chớp”. úc này trông nữ thần như một vị tiên giáng trần, “Mái tóc vén bên tai trông thật là đẹp”, “Đi trông như diều bay liệng, như nước lững lờ trôi”, Chàng Đăm Săn khi thấy vẻ đẹp kiều diễm ấy lại càng mê mẩn hơn nữa, trước mặt chàng là một vị nữ thần vô cùng xinh đẹp và tài giỏi, “Thân hình như cái nụ tai, với một cái cổ như con công”. Những điều đó càng khiến cho Đăm Săn muốn chinh phục hơn nữa. Tiếng của nàng lanh lảnh khẻ hỏi Đăm Săn : “Hỡi con người trần thế, ngươi muốn gì”. Đăm Săn trả lời lại : “Tôi muốn có người nấu cơm canh tôi ăn, dệt khố áo tôi mặc”, chàng tỏ ý muốn lấy nữ thần mặt trời làm vợ mình, “muốn đưa nàng xuống trần làm juê, làm êm tai , làm chị em với Hơ Nhị, Hơ Bhị”, đứng trước sự xinh đẹp của nữ thần chàng không kiềm lòng nổi mà nói ra ước muốn trong suy nghĩ của mình, chàng dũng cảm bày tỏ và tin rằng nữ thần sẽ chấp nhận lời cầu hôn của mình. Những nữ thần lại kiếm cớ để từ chối lời cầu hôn ấy, “nếu ta đi thì lợn dưới gà trên, cọp tê giác,… sẽ chết hết”, “Chết cả người Khơ me, người Lào”, “Chết cả người Ê đê Ê ga”, “Cây trong rừng sẽ tuyệt diệt, cây trên rú sẽ chết khô” . Nữ thần một mực phủ nhận lời đề nghị của Đăm Săn, nàng từ chối một cách quyết liệt, “Thôi ngươi hãy đi lấy gùi nước về đi, Ta sắp ra đi đây”. Nhưng Đăm Săn vẫn vô cùng trung thành với cảm xúc của chính mình, chàng đã dùng cây chà gạc chẻ núi, phát rừng, giết bao nhiêu thú dữ, vượt ngàn khó khăn gian truân mới đến được đây, nói đi là đi được sao, chàng vẫn muốn nhận được sự chấp nhận của Nữ thần, “Tôi thương nàng da diết, lòng dạ tôi không nguôi, vì vậy tôi đã đến đây với nàng, muốn cùng nàng nên nghĩa vợ chồng, có lấy được nàng tôi mới về”. Sự quyết tâm và kiên định của Đăm Săn cho thấy chàng là một người hết sức mạnh mẽ và quyết đoán đối với suy nghĩ của mình, muốn làm gì thì chàng nhất định sẽ làm cho bằng được, đó cũng là một trong những yếu tố để kiến tạo nên một người anh hùng của cộng đồng.Vậy là cuộc cầu hôn của Đăm Săn đã thất bại, Đăm Săn đã quyết định ra về mặc lời can ngăn của Nữ thần. Đăm Săn không cần sống hay chết, chàng cũng không cần ai cùng về, chàng một mình một ngựa phi như bay ra khỏi vùng đất của Mặt trời. Đất sáp đen đã dần nhão ra, chàng và chiến mã vẫn cứ phi, càng chậm dần chậm dần rồi biến mất trong khu rừng ấy. Người anh hùng ấy đã hy sinh vì những lí tưởng của chính mình. Chàng đã chết trong khát vọng với sự hiên ngang bất khuất, đó là dáng vẻ của một người anh hùng thực thụ. Cái chết đầy tính bi tráng của Đăm Săn nhuốm đầy màu sắc của bi kịch lịch sử và thời đại, đó là mâu thuẫn gay gắt giữa sự có hạn của những điều xung quanh, trái ngược với những khát vọng và lí tưởng vô hạn của người anh hùng sử thi. Hình ảnh người anh hùng ấy vẫn mãi mãi sống trong lòng người Ê đê, tồn tại mãi mãi trong những nét văn hoá lâu đời.

Truyện Sử thi về chàng Đăm Săn đậm đà bản sắc văn hoá truyền thống của người Ê đê. Trật tự mẫu quyền của dân tộc được thể hiện vô cùng sâu sắc qua những chi tiết của truyện, Đăm Săn không thể nào cầu hôn được nữ thần mặt trời chính là vì lí do ấy, những bản sắc văn hoá được in sâu vào trong tác phẩm nghệ thuật. Người anh hùng ấy khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, muốn chinh phục được nữ thần mặt trời để giúp đỡ cho người dân ở buôn làng, nhờ vào quyền năng của nàng có thể đem lại cho mọi người một cuộc sống tốt hơn nhưng tiếc thay chàng đã thất bại. Nhưng đó không phải là một sự thất bại hoàn toàn, tiếng thơm muôn đời của chàng Đăm Săn vì muốn đem lại hạnh phúc cho muôn dân mà hy sinh cuộc đời mình mãi mãi in sâu vào trong tâm trí của cộng đồng dân tộc, từ hình ảnh ấy là những bài học vô cùng quý giá về lí tưởng trong cuộc sống. Sống một cuộc đời giống như Đăm Săn không bao giờ lãng phí, đó là một cuộc đời mà nhiều người mơ ước, được vùng vẫy trong lí tưởng cao đẹp, được là người anh hùng của mọi người, mãi mãi về sau.

Câu 10: Trích dẫn được chia thành mấy loại? Đó là những loại trích dẫn nào?

Trả lời:

- Phân loại: - Phân loại:

+ Trích dẫn trực tiếp lả đưa nguyên văn một phần câu, một câu, một đoạn văn,... của bàn gốc vào bài viết và toàn bộ phần trích dẫn này phải được đặt trong ngoặc kép.  + Trích dẫn trực tiếp lả đưa nguyên văn một phần câu, một câu, một đoạn văn,... của bàn gốc vào bài viết và toàn bộ phần trích dẫn này phải được đặt trong ngoặc kép.

+ Trích dẫn gián tiếp là sử dụng ý tưởng của người khác và diễn đạt lại theo cách viết của minh nhưng phải đảm bảo trung thành với ý tưởng được trích dẫn. Phần trích dẫn gián tiếp không phải đặt trong dấu ngoặc kép + Trích dẫn gián tiếp là sử dụng ý tưởng của người khác và diễn đạt lại theo cách viết của minh nhưng phải đảm bảo trung thành với ý tưởng được trích dẫn. Phần trích dẫn gián tiếp không phải đặt trong dấu ngoặc kép

Câu 11: Phần bị tỉnh lược là gì? Phần bị tỉnh lược thường được chú thích như thế nào trong văn bản?

Trả lời:

+ Là phần thông tin ít quan trọng của văn bản gốc (theo cách nhìn và định hướng sử dụng văn bản của người tổ chức bản thảo) đã được lược bò, giúp cho nội dung văn bản trích dẫn trở nên tập trung và cô đọng hơn.  + Là phần thông tin ít quan trọng của văn bản gốc (theo cách nhìn và định hướng sử dụng văn bản của người tổ chức bản thảo) đã được lược bò, giúp cho nội dung văn bản trích dẫn trở nên tập trung và cô đọng hơn.

+ Phần bị tình lược thường được đánh dấu bằng dấu ngoặc vuông và dấu ba chấm [...]. + Phần bị tình lược thường được đánh dấu bằng dấu ngoặc vuông và dấu ba chấm [...].

Câu 12: Với Nam Việt Đế Lý Bí, lần đầu tiên Việt Nam xưng “đế một phương , lần đầu tiên miền trung tâm Hà Nội có thành xây đắp ("thành Tô Lịch"), có chia thờ Phật (chia Khai Quốc – Mở Nước, nay là chùa Trấn Quốc), có một mô hình quân chủ Phật giáo, vừa giống mà lại khác Trung Hoa, cháu nổi tiếp ông làm vua, xung là Phật tử (con Phật) chứ không như vua Trung Hoa xưng là Thiên tử (con Trời).

Các chú thích trong đoạn văn trên là?

Trả lời:

 Các chú thích trong đoạn văn trên là: Thành Tô Lịch, chùa Khai Quốc - Mở Nước, nay là chùa Trấn Quốc, con Phật, con Trời.

Câu 13: Khi tạo lập văn bản, người viết có thể sử dụng những cách thức nào để đánh dấu phần bị tỉnh lược?

Trả lời:

- Dùng kí hiệu dấu chấm lửng đặt trong ngoặc đơn (…) hoặc móc vuông […] - Dùng kí hiệu dấu chấm lửng đặt trong ngoặc đơn (…) hoặc móc vuông […]

- Dùng cụm từ chỉ báo về sự tỉnh lược như: lược dẫn, lược một đoạn,… - Dùng cụm từ chỉ báo về sự tỉnh lược như: lược dẫn, lược một đoạn,…

- Dùng một đoạn ngắn tóm tắt nội dung phần bị tỉnh lược - Dùng một đoạn ngắn tóm tắt nội dung phần bị tỉnh lược

Câu 14: Đoạn văn sau có những câu nào là trích dẫn trực tiếp và gián tiếp ?

(1) Mỗi lần bạn bè hỏi thăm về xứ Huế, tôi thường trả lời vui bằng một câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng:

"Dạ thưa xứ Huế bây giờ

Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương"

(2) Cứ tưởng là đùa chơi, hóa ra câu thơ còn nhắc đến một sự bất biến của xứ Huế, khi mà nói núi Ngự sông Hương từ bao giờ đã trở thành biểu tượng của xứ này. (3) Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã từng lo sợ một ngày nào đó "Huế không còn sông Hương thì liệu còn ai buồn nhắc tới Huế nữa không". (4) Còn nhà thơ Huy Tập thì xa xăm rằng : Nếu như chẳng có sông Hương - Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. (5)Vâng, con sông, ngọn núi là chỗ tựa, đồng thời cũng là cội nguồn để tạo ra hương sắc của cả một vùng đất và cao hơn là bản sắc văn hóa của vùng đất ấy.

Trả lời:

Các câu 1, 3, 4 là những câu trích dẫn trực tiếp và gián tiếp. Trong đó:

+ Câu 1, 3 là câu dẫn trực tiếp + Câu 1, 3 là câu dẫn trực tiếp

+ Câu 4 là câu dẫn gián tiếp + Câu 4 là câu dẫn gián tiếp

Câu 15: Chỉ ra cách đánh dấu phần bị tỉnh lược được sử dụng trong văn bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời (SGK Ngữ văn 10, tập một). Trong các trường hợp trên, nếu không đánh dấu phần tỉnh lược bằng phần lược dẫn thì bạn có thể thay thế bằng cách đánh dấu nào?

Trả lời:

– Chú ý đến đoạn lược dẫn ở đầu văn bản và cuộc chú (2) cuối văn bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời.

– Suy nghĩ phương án thay thế các đoạn lược dẫn bằng dấu ba chấm trong móc vuông [...] và đặt kí hiệu tỉnh lược này ở vị trí phù hợp. – Với cuộc chú (2) ở cuối văn bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời, bạn có thể dùng một móc vuông [...] đặt ở cuối văn bản và như thế văn bản không cần cuộc chú (2) như hiện có nữa.

Câu 16: Nêu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Hecto từ biệt Ăng-đrô-mác

Trả lời:

a, Giá trị nội dung

- Đoạn trích đã khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng Héc-to - bức tranh đại diện cho những người anh hùng Hy Lạp cổ đại với những phẩm chất tiêu biểu như can đảm, dũng cảm, tự trọng và không sợ cường quyền. - Đoạn trích đã khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng Héc-to - bức tranh đại diện cho những người anh hùng Hy Lạp cổ đại với những phẩm chất tiêu biểu như can đảm, dũng cảm, tự trọng và không sợ cường quyền.

- Gợi ra bài học về việc phải lựa chọn giữa việc thực hiện bổn phận với cộng đồng và gia đình cho mỗi cá nhân - Gợi ra bài học về việc phải lựa chọn giữa việc thực hiện bổn phận với cộng đồng và gia đình cho mỗi cá nhân

- Giúp người đọc cảm nhận được phần nào không khí chiến tranh ác liệt gay go thời kỳ đó và thái độ tôn trọng, ngưỡng mộ đối với các nhân vật anh hùng. - Giúp người đọc cảm nhận được phần nào không khí chiến tranh ác liệt gay go thời kỳ đó và thái độ tôn trọng, ngưỡng mộ đối với các nhân vật anh hùng.

b, Giá trị nghệ thuật

- Văn bản xây dựng nhân vật người anh hùng Héc-to theo đúng motip của người anh hùng trong sử thi, thể hiện được những nét đặc trưng điển hình của kiểu nhân vật người anh hùng. - Văn bản xây dựng nhân vật người anh hùng Héc-to theo đúng motip của người anh hùng trong sử thi, thể hiện được những nét đặc trưng điển hình của kiểu nhân vật người anh hùng.

- Ngôn từ, giọng văn rành mạch, kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm, tự sự. - Ngôn từ, giọng văn rành mạch, kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm, tự sự.

- Thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại sử thi, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. - Thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại sử thi, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.

Câu 17: Bạn nhận xét gì về cách miêu tả nhân vật Ăng-đrô-mác trong đoạn trích? Qua nhân vật Ăng-đrô-mác, ta có thể nhận ra điều gì về quan niệm nhân sinh của người Hy Lạp thời cổ đại?

Trả lời:

Tác giả miêu tả rất tinh tế diễn biến nội tâm của nhân vật Ăng-đrô-mác, đặc biệt là những ám ảnh về quá khứ, dự cảm về tương lai, sự đau khổ, giằng co giữa một bên là tình yêu đối với Héc-to và một bên là ý thức vé bổn phận.

Qua nhân vật Ăng-đrô-mác, ta cũng có thể thấy được ý thức về cá nhân và cộng đồng của người Hy Lạp cổ đại.

Câu 18: Tác giả đã khái quát những nhân vật anh hùng này có phẩm chất gì chung? Vì sao họ lại có chung những phẩm chất đó?

Trả lời:

Thông qua nhân vật Héc-to, Hô-me-rơ đưa ra hình mẫu về người anh hùng theo quan niệm của người Hy Lạp thời cổ đại: đó là sự kết hợp hài hoà giữa một bên là con người cá nhân với ý chí tự do, tình cảm gia đình, tình bằng hữu và một bên là con người cộng đồng với ý thức vé trách nhiệm, bổn phận và danh dự."Tính hài hoà sử thi" này đã tạo nên vẻ đẹp cao cả của các nhân vật anh hùng trong sử thi Hy Lạp.

Câu 19: Qua lời đối thoại của Héc-to và Ăng-đrô-mác, em có nhận xét gì về số phận của con người  trong chiến tranh?

Trả lời:

Qua lời đối thoại của Héc-to và Ăng-đrô-mác, có thể thấy chiến tranh là một mối đe dọa đối với sinh mệnh và hạnh phúc con người, đẩy con người tới vực thẳm của sự khổ đau, tuyệt vọng. Ăng-đrô-mác đã mất đi những người thân yêu nhất của mình bởi chiến tranh. Chiến tranh cũng khiến cho Héc-to buộc phải gạt bỏ tình cảm gia đình để sẵn sàng ra trận, đối mặt với định mệnh. Chiến tranh không những chỉ là điều gây ám ảnh trong quá khứ, mà còn là một mối đe dọa trong tương lai. Tuy nhiên, chiến tranh cũng là tình huống bộc lộ hết phẩm chất can trường, quả cảm của con người.

Câu 20: Văn bản cho thấy người Hy Lạp quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa con người và thần linh?

Trả lời:

Trong đoạn trích, có thể nhận ra vai trò của thần linh trong đời sống của người Hy Lạp. Con người khi đau khổ tuyệt vọng thì có thể tới đền thờ thần A-tê-na (Athena) để cầu xin nữ thần rủ lòng thương. Trên nấm mộ của nhà vua Ê-ê-xi-ông (Eetion) là những cây tiểu du do những nàng con gái của thần Dớt, những tiên nữ nanh-phơ (nymphe) chăm sóc. Héc-to vừa bế con trên tay, vừa khẩn cầu con trai của thần Crô-nốt (Cronos) và các vị thần khác. Những chi tiết này cho thấy tư duy huyền thoại của người Hy Lạp về thể giới, trong đó các thế lực thần linh có sức chi phối mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống con người, giữa thế giới người và thần không có sự ngăn cách, vì thế con người có thể dễ dàng giao tiếp với thần linh. Sự sống và cái chết, thành công hay thất bại, chiến tranh hay hòa bình của con người đều do sự can thiệp của thần linh. Nhưng khác với thần thoại mà trong đó nhân vật trung tâm là các vị thần, nhân vật trung tâm trong sử thi là con người, là người anh hùng của cộng đồng, có sức mạnh siêu phàm, sánh tựa thần linh, và đôi khi dám hành động chống lại số phận đã được sắp đặt sẵn bởi thần linh. Tư duy thần thoại và ý thức ca ngợi vẻ đẹp, sức mạnh của con người chính là hai phương diện vừa mâu thuẫn vừa thống nhất trong sử thi.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay