Nội dung chính Ngữ văn 9 chân trời Bài 7: Ngôi mộ cổ

Hệ thống kiến thức trọng tâm Bài 7: Ngôi mộ cổ sách Ngữ văn 9 chân trời sáng tạo. Với các ý rõ ràng, nội dung mạch lạc, đi thẳng vào vấn đề, hi vọng người đọc sẽ nắm trọn kiến thức trong thời gian rất ngắn. Nội dung chính được tóm tắt ngắn gọn sẽ giúp thầy cô ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh. Bộ tài liệu có file tải về. Mời thầy cô kéo xuống tham khảo.

Xem: => Giáo án ngữ văn 9 chân trời sáng tạo

BÀI 7: HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ SỰ THẬT

VĂN BẢN 2: NGÔI MỘ CỔ

I. Trải nghiệm cùng văn bản

1. Đọc

- Cách đọc: Khi đọc, HS cần chú ý thể hiện được cảm xúc, tính cách của nhân vật, đặc biệt là quá trình phá án của nhân vật thám tử.

- Câu hỏi trong thẻ chỉ dẫn:

Câu hỏi/ 

kĩ năng đọc.

Câu trả lời 

của tôi

Dự đoán: Dụng ý của Kỳ Phát khi đọc to bài thơ này là gì?

Bài thơ ẩn chứa lời hứa hẹn về kho báu vô giá. Kỳ Phát muốn khơi dậy lòng tham và sự quyết tâm của ba anh em họ Đặng để họ cùng nhau đi đến cùng.

2. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

a. Tác giả

- Phạm Cao Củng (1913 2012), quê ở làng Lương Đường (sau đổi Lương Ngọc), huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

- Ông là một trong những người viết truyện trinh thám đầu tiên và có thành tựu của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

- Là tác giả của gần 20 cuốn truyện trinh thám. Một số truyện tiêu biểu là: Vết tay trên trần (1936), Kho tàng họ Đặng (1937), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Nhà sư thọt (1941), Đám cưới Kỳ Phát (1942),... 

- Ngoài ra, ông còn là tác giả của một số truyện võ hiệp và truyện thiếu nhi. 

b. Tác phẩm

Văn bản Ngôi mộ cổ là tên của chương VIII trong tác phẩm Kho tàng họ Đặng (1937) kể về hành trình đi tìm kho báu gia tộc họ Đặng của thám tử Kỳ Phát và con cháu họ Đặng.

II. Suy ngẫm và phản hồi

1. Cốt truyện, không gian, thời gian, ngôi kể trong truyện Bài hát đồng sáu xu.

a. Cốt truyện

Kỳ Phát và ba anh em họ Đặng ghép bốn chiếc đĩa thành một bài thơ bát cú luật Đường. Vào một đêm trăng, Kỳ Phát và ba anh em họ Đặng đến khu mộ cổ của gia tộc để tìm kho báu. Kỳ Phát lấy được chiếc đĩa thứ tư và trốn khỏi nhà Đặng Bá Vy. Kỳ Phát được nghe kể về bốn chiếc đĩa cổ do ông tổ nhà họ Đặng để lại. Kỳ Phát cải trang vào nhà Đặng Bá Vy tìm chiếc dĩa thứ tư, bị hắn bắt giam

b. Nội dung bao quát của văn bản

Ngôi mộ cổ kể về hành trình thám tử Kỳ Phát cùng ba trưởng ngành nhà họ Đặng đến khu mộ cổ. Ở đó, họ đã giải mã bí ẩn đằng sau bài thơ thất ngôn bát cú được khắc trong đáy bốn chiếc đĩa cổ mà ông tổ họ Đặng để lại. Nhờ vậy, họ tìm ra kho báu của gia tộc.

2. Ngôi kể, chi tiết và lời kể trong văn bản Ngôi mộ cổ

a. Ngôi kể

- Ngôi kể mà tác giả sử dụng trong VB Ngôi mộ cổ là ngôi thứ ba, đứng bên ngoài quan sát và kể câu chuyện. Khác với người kể chuyện ngôi thứ nhất trong VB Chiếc mũ miện dát đá be-rô, ưu thế của việc sử dụng ngôi kể này là:

+ Người kể chuyện ngôi thứ ba với tầm hiểu biết rộng lớn, bao quát (biết hết mọi chuyện thuộc về nhiều vùng không gian, nhiều thời đại, liên quan nhiều thế hệ khác nhau của dòng tộc họ Đặng), sẽ không bị giới hạn trong tầm hiểu biết của một nhân vật duy nhất như trường hợp người kể chuyện ngôi thứ nhất, nhân vật bác sĩ Oát-sân, xưng “tôi” trong VB Chiếc mũ miện dát đá be-rô. Nhờ đó, người kể chuyện có thể giúp người đọc kết nối không gian, thời gian quá khứ với không gian, thời gian hiện tại một cách thuận lợi, tự nhiên.

+ Giúp người đọc có cái nhìn khách quan hơn về thám tử Kỳ Phát và quá trình khám phá bí mật ngôi mộ cổ.

b. Chi tiết

- Chi tiết có tác dụng giúp Kỳ Phát phán đoán hướng tìm kho báu: hai câu thơ in trên bốn chiếc đĩa cổ. 

+ Kỳ Phát đã ghép hai câu thơ trên bốn chiếc đĩa thành một bài thơ thất ngôn bát cú. Kỳ Phát lí giải đúng ý nghĩa của từng câu thơ, đặc biệt là ý nghĩa của câu “Tây một trăm giây, thẳng một dây” là đi về hướng Tây trong vòng một trăm giây đồng hồ. Nhờ đó, chàng đã xác định được hai điểm đánh dấu trên mặt đất và tìm thấy cửa hầm dẫn xuống kho báu. 

+ Để hiểu đúng được “một trăm giây” có nghĩa là một trăm giây đồng hồ, đếm theo giây chứ không đếm theo bước chân, Kỳ Phát đã liên tưởng, kết nối quá trình ông tổ họ Đặng cất giấu kho báu và vai trò của viên cố đạo người Tây phương: “Ông quên rằng chính Mác-cô Pô-lô một người Âu đã bầy cho Đinh Củng Viên cách giấu của này rồi ư?”.

c. Lời của người kể chuyện, lời của nhân vật

Yếu tố

Ví dụ

Lời người 

kể chuyện

- Chàng bỗng tự nhiên nói.

- Rồi chàng hắng giọng ngâm to bài thơ bát cú.

- Kỳ Phát chạy lại gốc, cởi áo ngoài rồi leo lên thoăn thoắt. Đến chạc hai cành cây ấy thì chàng ngồi nghỉ rồi leo ra một cành.

- Kỳ Phát lại trèo sang cành cây thứ hai, rồi cũng dòng chùm chìa khoá xuống, Liên Ty lại lấy que đánh dấu.

- Ra dáng ngẫm nghĩ, Liên Ty đếm từ chỗ đích thứ nhất bước về phía đông hai mươi hai bước.

Kỳ Phát bèn cùng Liên Ty căng một chiếc dây thẳng nối liền hai chỗ đánh dấu.

- Rút chiếc thước cuộn trong túi ra, Kỳ Phát và Liên Ty đo dài ra 424 thước. Nhưng cả bọn bốn người đều sửng sốt. Ngay dưới đất, phía trước mặt bốn người đều trông thấy một lỗ tối om.

Lời nhân vật

- Tôi hiểu rồi “đến Văn Lý”, đây chẳng là bãi bể Văn Lý là gì?

- Mà có cả chị “Nguyệt” và cây nữa!

- Các ông “đứng ngắm cây" xem có thấy gì không?

- Tôi để ý trăng bây giờ bị lấp sau thân cây.

- Đó là “nguyệt giấu mình”. Ngay chỗ bóng trăng bị lấp có hai cành cây đâm ra hai bên, hai bên “tả hữu”, các ông hiểu chưa? Các ông hãy nhận kĩ lấy hai cành cây ấy.

- Phải rồi, cành bên đông và cành bên tây.

- “Đông hai mươi bước thêm hai bước” tôi hiểu, nhưng “tây một trăm giây thẳng một dây” thì tôi chịu. Một trăm giây là gì?

- Là một trăm giây đồng hồ, ông quên rằng chính Mác-cô Pô-lô một người Âu đã bầy cho Đinh Củng Viên cách giấu của này rồi ư?.

- Tác dụng của việc Kỳ Phát đọc to bài thơ thất ngôn bát cú: 

+ Chứng minh cho người nhà họ Đặng thấy bài thơ chính là tấm bản đồ chỉ dẫn nơi cất giữ kho báu của tổ tiên.

+ Từng bước hướng dẫn nhà họ Đặng, đưa họ vào hành trình khám phá sự thật cùng với mình.

3. Nhân vật trong văn bản Ngôi mộ cổ

Đặc điểm

Bằng chứng

Nhận xét

Kĩ thuật điều tra vượt trội

- Điều tra được thông tin liên quan đến bốn chiếc đĩa cổ mà ông tổ họ Đặng để lại.

- Sử dụng các dụng cụ một cách thông minh, hiệu quả trong quá trình điều tra (dùng dây quả dọi để xác định hướng đi đến đường hầm vào kho báu).

Nhân vật Kỳ Phát thể hiện rõ những đặc điểm của một thám tử trong truyện trinh thám: khả năng quan sát, phán đoán, liên kết các thông tin (dù là nhỏ nhất) để khám phá những bí ẩn, tìm ra sự thật.

Khả năng quan sát tinh tường

- Quan sát địa hình, các chi tiết không gian, thời gian (12 giờ đêm, ánh trăng khuya) quanh khu mộ cổ của gia tộc họ Đặng để liên kết với nội dung bài thơ luật Đường.

- Quan sát địa thế của cây ở khu mộ cổ để xác định được hai bên tả – hữu từ cành cây đâm ra hai hướng – đông – tây như lời bài thơ đã báo.

- Quan sát vết chân trên đường hầm dẫn xuống kho báu để đưa ra phán đoán chính xác về việc Đặng Bá Vy và tên Nghé đã vào hầm mộ từ trước.

Khả năng phân tích, suy luận, đánh giá sắc bén

- Phân tích, suy luận, giải mã được các chi tiết quan trọng trong bài thơ, từ đó, xác định đúng hướng của cửa hầm kho báu.

- Liên kết được thông tin bí ẩn, khó lí giải trong câu thơ “Tây một trăm giây, thẳng một dây” với quá trình viên cố đạo người Tây giúp ông tổ họ Đặng tìm ra kho báu. Từ đó, đưa ra suy luận quan trọng về việc tính khoảng cách theo một trăm giây đồng hồ.

4. Tổng kết

a. Nội dung

- Ca ngợi tài năng suy luận logic, nhạy bén của nhân vật Kỳ Phát khi lí giải bài thơ và tìm ra đường đến ngôi mộ cổ.

b. Nghệ thuật

- Ngôi kể: ngôi thứ ba.

- Kết hợp sử dụng lời thoại của nhân vật và lời người kể chuyện.

- Sử dụng những manh mối gây nhiễu khá phức tạp.

=> Giáo án Ngữ văn 9 Chân trời bài 7: Ngôi mộ cổ (Phạm Cao Củng)

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Kiến thức trọng tâm Ngữ văn 9 chân trời sáng tạo - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay