Câu hỏi tự luận ngữ văn 11 chân trời sáng tạo Bài 5 văn bản 1: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 5 văn bản 1: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo

BÀI 5: BĂN KHOĂN TÌM LẼ SỐNG

VĂN BẢN 1: VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI
(14 câu)

 

1. NHẬN BIẾT (4 câu)

Câu 1: Hãy nêu những đặc điểm cơ bản của bi kịch. 

Trả lời:

– Bi kịch là một thể của loại hình kịch, đối lập với hài kịch.

– Ngoài các đặc điểm chung của loại, bi kịch còn mang những đặc điểm riêng của thể. Những đặc điểm riêng này thể hiện qua xung đột, nhân vật và qua nhiều yếu tố khác của bi kịch.

– Xung đột bi kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn "không thể giải quyết" và mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến "sự diệt vong những giá trị quan trọng".

– Nhân vật bi kịch mang trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy. Không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, nhân vật bi kịch bướng bỉnh vùng lên chống lại số phận, thách thức số phận.

– Bi kịch miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cỏ đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hoà và căng thẳng đến cực độ, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật. Tác phẩm bi kịch thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhất của cuộc sống.

– Các vở bi kịch tiêu biểu: Rô-mê-ô và Giu-li-ét (Sếch-xpia), Vũ Như Tô (Nguyễn Huy Tưởng),...

 

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Huy Tưởng.

Trả lời:

– Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong những tổ chức văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo (năm 1943, tham gia Hội Văn hoá cứu quốc; tháng 8 – 1945, là đại biểu Văn hoá cứu quốc đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào). Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

– Tác phẩm chính của Nguyễn Huy Tưởng: các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Luỹ hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đô (1961); kí: Kí sự Cao – Lạng (1951),...

 

Câu 3: Tóm tắt nội dung đoạn trích.

Trả lời:

– Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài.

– Biết tin có binh biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục ông đi trốn. Nhưng Vũ Như Tô khăng khăng không nghe vì tự tin mình "quang minh chính đại", "không làm gì nên tội" và hi vọng ở chủ tướng An Hoà Hầu. Tình hình càng lúc càng nguy kịch: Lê Tương Dực bị giết, đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ lây, Đan Thiềm bị bắt,... Kinh thành điên đảo. Khi quân khởi loạn đốt Cửu Trùng Đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Ông trơ trọi, đau đớn vĩnh biệt Cửu Trùng Đài rồi bình thản ra pháp trường.

 

Câu 4: Có một số câu nói bị ngắt thành nhiều quãng của Đan Thiềm (ở lớp VII) và Vũ Như Tô (ở lớp VIII). Hãy tìm và phân tích giá trị nghệ thuật của những câu ngắt quãng ấy.

Trả lời:

  1. a) Trong đoạn trích, có hai câu nói bị ngắt quãng thành nhiều đoạn, một của Đan Thiềm (lớp VII), một của Vũ Như Tô (lớp VIII).

– Lời của Đan Thiềm hai lần bị ngắt quãng "– Tướng quân tha..." (quân khởi loạn xúm vào trói và nhục mạ nàng, cắt ngang câu nói của nàng) "... Tha cho ông Cả”; "Xin tướng quân..." (Ngô Hạch lại ngắt lời Đan Thiềm).

– Tương tự, lời Vũ Như Tô cũng ba lần bị ngắt quãng: "[...] ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...", "... Vài năm nữa [...], có một cảnh Bồng Lai...", "xuất hiện...".

  1. b) Giá trị nghệ thuật của những câu nói bị ngắt quãng này:

– Tô đậm tính cách quên mình vì Vũ Như Tô của Đan Thiềm, lòng thiết tha với nghệ thuật, với Cái Đẹp và tính cách mù quáng, ảo vọng của Vũ Như Tô.

– Góp phần tái hiện thanh thế của phe nổi loạn (đảng ác), không khí bi kịch lịch sử, nhịp điệu gấp gáp của cơn binh biến phũ phàng.

 

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Phân tích tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô trong đoạn trích.

Trả lời:

Tính cách và diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô:

– Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân cho niềm khát khao, say mê sáng tạo "cái đẹp". Thiên tài của Vũ Như Tô chủ yếu được thể hiện ở những hồi trước của vở kịch, chủ yếu là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Vũ Như Tô là một thiên tài "ngàn năm chưa dễ có một", "chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện lên trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh hoá công", có thể "sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ".

– Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhân cách lớn, có hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả. Là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I). Ông cũng không phải là người hám lợi (khi được vua ban thưởng vàng bạc, lụa là, ông đã đem chia hết cho thợ). Lí tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô chân chính, nhưng là lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời, thoát li khỏi hoàn cảnh lịch sử – xã hội của đất nước, xa rời đời sống hiện thời của nhân dân lao động. Vì quá say sưa với mơ ước xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại "bền như trăng sao" để cho "dân ta nghìn thu còn hãnh diện" mà Vũ Như Tô đã không nhận ra một thực tế tàn nhẫn: Cửu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân!

Hồi V của vở kịch không nói nhiều đến tài năng của Vũ Như Tô mà tập trung làm nổi bật tâm trạng bi kịch đầy căng thẳng của ông khi phải tìm kiếm câu trả lời: Xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Là có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô đã không trả lời thoả đáng câu hỏi đó. Khát vọng nghệ thuật, niềm đam mê sáng tạo của ông có phần chính đáng vì xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ động cơ chân chính muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước và làm đẹp cho đời, nhưng đã đặt lầm chỗ, lầm thời, xa rời thực tế nên đã phải trả giá bằng sinh mệnh của bản thân và của cả công trình nghệ thuật.

– Vũ Như Tô đúng là một nhân vật bi kịch bởi đã mang trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà còn cả những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Ông không nghĩ việc mình xây Cửu Trùng Đài cho đất nước lại bị xem là tội ác. Đến khi cuộc nổi loạn đã nổ ra, Đan Thiềm hốt hoảng báo cho Vũ Như Tô nguy cơ nếu không trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng ông vẫn không chịu đi vì vẫn tin vào động cơ và việc làm "chính đại quang minh" của mình, vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một trong những kẻ cầm đầu phe nổi loạn. Song sự thực thật tàn nhẫn, mọi việc không diễn ra như ảo tưởng của Vũ Như Tô. Khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá, thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, xiết bao đau đớn, kinh hoàng ngửa mặt lên trời mà kêu lên: "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!". Trong tiếng kêu ấy, mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài dồn dập vang lên, hoà nhập vào nhau thành nỗi đau bi tráng. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

 

Câu 2: Phân tích tính cách, diễn biến tâm trạng của Đan Thiềm trong đoạn trích.

Trả lời:

Tính cách và diễn biến tâm trạng của Đan Thiềm:

– Nếu Vũ Như Tô là người nghệ sĩ đam mê sáng tạo cái đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê cái tài, ở đây là tài sáng tạo ra cái đẹp. "Bệnh Đan Thiềm", theo quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng, chính là "bệnh" mê đắm tài hoa siêu việt của người sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo ra cái đẹp. Vì có tấm lòng liên tài nên lúc Vũ Như Tô mới bị bắt, ông nhờ Đan Thiềm "mách đường chạy trốn", nàng đã khuyên ông ở lại, thuyết phục ông nhân cơ hội này, mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện được hoài bão xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật đồ sộ, vĩnh cửu. Vì đam mê tài năng mà nàng luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, sẵn sàng quên mình để bảo vệ cái tài ấy. Với nét tính cách ấy, Đan Thiềm xúng đáng là tri âm, tri kỉ của Vũ Như Tô.

– Nhưng nếu Vũ Như Tô đam mê sáng tạo đến mức không hề chú ý, không hề biết đến hoàn cảnh vây quanh mình, thì Đan Thiềm lại luôn tỉnh táo, sáng suốt trong mọi trường hợp. Biết chắc ước vọng xây đài lớn không thành, tâm trí nàng giờ đây chỉ còn tập trung vào việc bảo vệ an toàn tính mệnh cho Vũ Như Tô. Đan Thiềm khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô đi trốn, năm lần bảy lượt thúc giục ông "trốn đi", "lánh đi", "chạy đi", chắp tay lạy, van xin: "Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được!" nhưng không sao làm cho ông tỉnh ngộ; Vũ Như Tô vẫn bướng bỉnh chống lại số phận. Đến khi quân nổi loạn kéo vào, gươm giáo sáng loè, biết Vũ Như Tô "có trốn cũng không được nữa" thì nàng đã khóc. Nàng nói với Ngô Hạch, sẵn sàng đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô: "Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài...". Biết không sao cứu nổi Vũ Như Tô, Đan Thiềm đau đớn buông lời vĩnh biệt: "Ông Cả! Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt".

 

Câu 3: Trong lời đề tựa kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng viết:

“Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết.

Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm.”

Bằng những hiểu biết về đoạn trích và về vở kịch, em hãy phát biểu ý kiến của mình về lời đề tựa trên.

Trả lời:

– Đây là phần cuối của lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô do chính Nguyễn Huy Tưởng viết ngày 6 tháng 2 năm 1942, sau khoảng một năm viết xong tác phẩm.

Tựa là thành phần nằm ngoài văn bản của một tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề của mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm. Qua lời đề tựa trên, Nguyễn Huy Tưởng đã chân thành bộc lộ nỗi băn khoăn của mình: Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô? Và ông thú nhận "ta chẳng biết", tức là không thể đưa ra một lời giải đáp thoả đáng. Qua vở kịch, có thể thấy chân lí không hoàn toàn thuộc về phía nào: việc mất Cửu Trùng Đài vừa nên mùng, vừa nên tiếc. Đồng thời, nhà văn khẳng định: "Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm", tức là vì cảm phục "tài trời", nhạy cảm với bi kịch của những tài năng siêu việt.

 

Câu 4: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật của muốn đời và lợi ích thiết thực của đời sống nhân dân thể hiện ở Hồi V của vở kịch có ý nghĩa gì?

Trả lời:

– Trong lời đề tựa viết một năm sau khi viết xong vở kịch, chính Nguyễn Huy Tưởng đã công khai bày tỏ nỗi băn khoăn của mình: "Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?", "Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải [...] – Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết – Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Các mâu thuẫn nói chung thường chỉ có thể giải quyết bằng hai cách: hoặc bằng cách triệt tiêu (phủ định dứt khoát hẳn một phía, để thắng lợi cho phía kia), hoặc bằng cách hoà giải (điều hoà, cải biến cả hai phía). Chẳng hạn, với mâu thuẫn thứ nhất, nhân dân nổi dậy giết bạo chúa là xong (triệt tiêu), nhưng mâu thuẫn thứ hai chỉ có thể giải quyết theo cách hoà giải. Thế mà xem ra đã không có một cuộc hoà giải nào (cơ hội duy nhất để chờ hoà giải là Vũ Như Tô phải tạm thời trốn đi, chờ thời. Nhưng Vũ Như Tô vừa mù quáng vừa cố chấp nên cơ hội này bị bỏ qua). Ở đây, nhân dân còn hồ đồ, mù quáng hơn cả Vũ Như Tô, họ những tưởng đốt xong Cửu Trùng Đài là xong xuôi mọi sự. Cửu Trùng Đài bị đốt, nhưng Vũ Như Tô vẫn không hiểu gì và không hề quan tâm đến lợi ích thiết thực của nhân dân. Ông đi ra pháp trường bình thản nhận cái chết, cũng như Đan Thiềm bị coi như một kẻ thù sẽ bị xử giảo, coi như giá trị lớn bị huỷ diệt. Hai giá trị – Cái Đẹp và Cái Thiện đã không thể điều hoà, chung sống với nhau. Cái Đẹp bị tiêu diệt thì Cái Thiện cũng không còn đất sống.

– Mâu thuẫn và tính không dứt khoát trong cách giải quyết mâu thuẫn này được thể hiện tập trung trong hồi cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ và bị đốt cháy, nhân dân trước sau vẫn không hiểu gì về việc sáng tạo của nghệ sĩ. Trước, họ nguyền rủa việc xây dựng Cửu Trùng Đài, giờ đây, họ hả hê đốt phá. Họ càng không hiểu nổi Đan Thiềm, Vũ Như Tô cũng như "mộng lớn" của hai nhân vật – hiện thân cho Tài – Sắc này. Về phía khác, Đan Thiềm không cứu được Vũ Như Tô bằng lời khuyên của nàng, mặc dù trong mắt Vũ Như Tô, nàng là người tri kỉ, đồng bệnh, lại là "viên ngọc quý", "trí sáng như vầng nhật nguyệt". Vũ Như Tô vẫn không thể, không bao giờ hiểu được việc làm của quần chúng và của phe cánh nổi loạn. Nếu Vũ Như Tô nghe lời, trốn đi thì có thể mâu thuẫn sẽ giải quyết theo một hướng khác chăng?

Thực ra, đây là mâu thuẫn mà có lẽ không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt khoát, ổn thoả được. Bởi vì nó mang tính phổ quát và mang tầm nhân loại: thực chất là biểu hiện của mâu thuẫn giữa nghệ sĩ và nhân dân, giữa Cái Đẹp (thuần tuý, siêu đẳng) và Cái Thiện trong một số hoàn cảnh, trường hợp đặc biệt. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết được ổn thoả khi đời sống tinh thần của nhân dân, nhu cầu về Cái Đẹp được nâng cao lên.

Với một đề tựa như thế, đủ để biết từ trong ý đồ nghệ thuật cho đến việc thể hiện ý đồ ấy, nhà văn đã tạo ra một suy tư lơ lửng, mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của đời sống nhân dân. Việc giải quyết ổn thoả mâu thuẫn này phải nhờ vào lịch sử và sự giác ngộ của cả nghệ sĩ và nhân dân.

 

Câu 5: Bên cạnh những lời thoại đầy kịch tính của nhân vật, các chú thích nghệ thuật của tác giả (in nghiêng và đặt trong ngoặc đơn) trong đoạn trích trên có giá trị như thế nào?

Trả lời:

Ví dụ một đoạn thoại trong lớp cuối cùng của vở kịch.

– Trong lớp này, trực tiếp tham gia vào hành động trên sân khấu có các nhân vật: Vũ Như Tô, Ngô Hạch, lũ quân, quân sĩ. Kịch tính ở đây chủ yếu được biểu hiện thông qua các lời thoại (gồm cả đối thoại và độc thoại) giữa hai thế lực đối nghịch: một bên là quân phản loạn, nhân danh sức mạnh quyền lợi của dân chúng mà đốt phá, truy diệt phe đảng của vương triều cũ; một bên là người thợ cả lừng danh, nhân danh hoài bão nghệ thuật cao đẹp mà xây đài cho bạo chúa.

– Bên cạnh các lời thoại, các chỉ dẫn sân khấu được sử dụng để tạo dựng tình huống, bối cảnh cho diễn xuất. Chẳng hạn, lời LŨ QUÂN – "... Cửu Trùng Đài sắp là một đống tro tàn!”; chú thích nghệ thuật: "(Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào)”; và "VŨ NHƯ TÔ (nhìn ra, rú lên) – Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! (có tiếng hô vui vẻ: "Cửu Trùng Đài đã cháy!"); QUÂN SĨ – Thực đáng ăn mừng. VŨ NHƯ TÔ (chua chát) – Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường!".

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô được thể hiện cụ thể như thế nào trong hồi V?

Trả lời:

– Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng sống xa hoa, truỵ lạc. Mẫu thuẫn này vốn có từ trước, đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, thì mâu thuẫn này càng ngày càng căng thẳng. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát vì bị ăn chặn. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết bởi tai nạn, vì ông cho chém những kẻ chạy trốn.

Trịnh Duy Sản can ngăn Lê Tương Dực, báo sẽ có loạn và đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô. Nhưng Lê Tương Dực chẳng những không nghe mà còn sai đánh đòn Trịnh Duy Sản (hồi III).

Thế rồi, tin lụt lội, mất mùa, tin "dân gian đói kém nổi lên tứ tung" truyền đến Thăng Long. Vũ Như Tô bị đá đè bị thương vẫn hăng hái đốc thợ xây Cửu Trùng Đài. Thợ định nổi loạn. Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe cánh đối nghịch trong triều đình – đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cửu Trùng Đài (hồi IV và hồi V).

 Như vậy, mâu thuẫn này đến hồi V đã trở thành cao trào, lên tới đỉnh điểm ở hồi cuối cùng và được giải quyết: Hôn quân Lê Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết, Nguyễn Vũ tự sát, Kim Phượng và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

– Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

Mâu thuẫn này có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa: Người nghệ sĩ thiên tài đầy hoài bão và tâm huyết cũng không thể thi thố tài năng của mình để đem lại cái đẹp cho đời, niềm tự hào cho dân tộc trong một chế độ xã hội thối nát, trong một đất nước mà nhân dân còn phải sống triền miên trong đói khổ, lầm than. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài có khả năng "tranh tinh xảo với hoá công" để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại, để cho "dân ta nghìn thu còn hãnh diện". Nhưng hoàn cảnh của đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát vọng sáng tạo vĩ đại, chân chính đó. Không có cách lựa chọn nào khác, Vũ Như Tô đã nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm – một cung nữ "đồng bệnh" với ông – đành phải mượn uy quyền và tiền bạc của tên hôn quân Lê Tương Dực, để thực hiện hoài bão lớn lao của mình xây dựng cho đất nước một công trình nguy nga, vĩ đại. Trớ trêu thay, chính niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành ấy đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân. Mặc dù vốn yêu nhân dân, muốn cống hiến tài năng của mình để đem lại niềm tự hào và vinh quang cho đất nước, nhưng Vũ Như Tô lại bị nhân dân, nhất là những người thợ, coi ông như kẻ thù của họ. Muốn thực hiện lí tưởng nghệ thuật thì lại rơi vào tình trạng đi ngược lại quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nếu xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân thì không thể thực hiện mơ ước nghệ thuật muôn đời của mình, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch không lối thoát của thiên tài Vũ Như Tô.

– Hai mâu thuẫn nói trên của vở kịch có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau.

 

Câu 2: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thân của nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện như thế nào ở hồi cuối cùng của vở kịch? Theo em, nên giải quyết mâu thuẫn ấy như thế nào?

Trả lời:

– Mâu thuẫn thứ nhất: Mâu thuẫn giữa nhân dân khốn khổ lầm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng với phe cánh của chúng sống xa hoa truỵ lạc đã được tác giả giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết; Nguyễn Vũ – đại thần của y – tự sát; đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ,

bắt bớ.

– Mâu thuẫn thứ hai: Mâu thuẫn giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời và lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện ở chỗ Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân Lê Tương Dực nhưng lại muốn mượn uy quyền, tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình, trong thực tế, đã vô tình gây thêm nỗi khốn khổ cho nhân dân. Vũ Như Tô có tội hay là có công? "Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?" Đó là những câu hỏi đầy day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát. Tác giả đã trực tiếp bày tỏ nỗi băn khoăn của mình qua lời đề từ: "Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?", "Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Cách nêu vấn đề của tác giả như vậy là hợp lí. Bởi lẽ, chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng nhân dân.

 

Câu 3: Tác giả đã thể hiện thái độ như thế nào khi miêu tả hai nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích?

Trả lời:

– Đây là vấn đề thú vị nhưng rõ ràng không đơn giản. Bởi vì, trong khi bàn bạc, trao đổi, một mặt, ta cần phân biệt thái độ, cảm hứng và quan niệm thẩm mĩ của nhà văn qua hình tượng nhân vật ấy. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, thái độ và cách đánh giá của Nguyễn Huy Tưởng đối với các nhân vật chắc chắn cũng không luôn luôn đồng nhất với thái độ, cách đánh giá của các nhân vật ấy đối với nhân vật khác và đối với chính mình.

– Có thể hiểu thái độ, cách đánh giá của Nguyễn Huy Tưởng về Vũ Như Tô qua thái độ, cách đánh giá của Đan Thiềm đối với nhân vật này ("Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm"). Đan Thiềm cảm phục, trân trọng Vũ Như Tô nồng nhiệt đến quên mình. Nhưng Nguyễn Huy Tưởng cũng thận trọng, tỉnh táo nhận ra Vũ Như Tô chỉ là người tài, chưa phải bậc hiền tài, cái đẹp mà Vũ Như Tô có thể tạo ra là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. Chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia thuộc về đời sống của dân chúng. Như vậy, nói chung Vũ Như Tô và Đan Thiềm là tính cách đa diện, phức tạp. Thái độ nhà văn, chủ yếu là trân trọng cái tài, khâm phục cái hoài bão, cảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô, không thể là thái độ ngợi ca một chiều và có những chỗ ông không đồng tình với nhân vật của mình.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Tìm hiểu, nhận xét về cách diễn tả không khí, nhịp điệu của sự việc, cách dẫn dắt xung đột kịch (qua nghệ thuật dàn cảnh, phân lớp) và những điểm đặc sắc về ngôn ngữ phù hợp với một vở bi kịch lịch sử thể hiện trong đoạn trích (bao gồm cả lời nhân vật và lời chỉ dẫn sân khấu của tác giả).

Trả lời:

Bằng một ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hồi cuối của Vũ Như Tô, nhà văn đã đồng thời khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh đời sống bi kịch rất hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó.

– Nhịp điệu được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động (nhất là qua khẩu khí, nhịp điệu, sắc thái lời nói – hành động của những người khác trong vai trò đưa tin, nhịp điệu "ra", "vào" của các nhân vật đầu và cuối mỗi lớp – các lớp đều ngắn, có những lớp rất ngắn : chỉ vài ba lượt thoại nhỏ ; những tiếng reo, tiếng thét, tiếng động dội từ hậu trường, phản ánh cục diện, tình hình nguy cấp, điên đảo trong các lời chỉ dẫn sân khấu hàm súc của tác giả). Với một ngôn ngữ có tính tổng hợp (kể, miêu tả, bộc lộ,...) và tính hành động rất cao như vậy, người ta dễ dàng hình dung cả một không gian bạo lực kinh hoàng trong một nhịp điệu chóng mặt : Lê Tương Dực bị Ngô Hạch giết chết, hoàng hậu nhảy vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại), Nguyễn Vũ tự tử bằng dao (ngay trên sân khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ ngay tại chỗ, Vũ Như Tô ra pháp trường. Rồi tiếng nhiếc móc, chửi rủa, la ó, than khóc, máu, nước mắt,... tất cả hừng hực như trên một cái chảo dầu sôi khổng lồ.

Mỗi lần Đan Thiềm cũng như Vũ Như Tô xuất hiện (với công trình Cửu Trùng Đài đang xây) trên sân khấu đều đánh dấu một biến động lớn của hành động kịch. (Cảnh thứ nhất: Hồi I, lớp 7; cảnh thứ hai: Hồi III, lớp 9; cảnh thứ ba: Hồi V, lớp 7, 8, 9. Hồi I: đài cao sắp mọc, tình tri kỉ nảy sinh; Hồi III: Đài Cửu Trùng đang mọc lên dang dở nhưng đẹp và kì vĩ lắm, tình tri kỉ gắn bó tha thiết; Hồi V: Cửu Trùng Đài sụp đổ, người tri kỉ, tình tri kỉ chìm trong cái chết bi thương).

– Là một vở kịch lịch sử, Vũ Như Tô tất nhiên được viết dựa trên sử liệu: sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử. Điều quan trọng là tác giả đã khai thác, vận dụng các sử liệu ấy như thế nào cho phù hợp với yêu cầu của bi kịch. Và lịch sử có lô gích, quy luật riêng của nó. Nhiều khi thật tàn khốc, lạnh lùng. Cái lõi lịch sử được nhà văn khai thác ở đây là câu chuyện Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực (như sách Đại Việt sử kíViệt sử thông giám cương mục ghi lại). Đài xây dang dở, người thợ tài hoa Vũ Như Tô đã phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp phần làm nên cái khung cảnh và không khí bi tráng của lịch sử, tác giả đã đặt hành động kịch vào trong "một cung cấm”; nhiều nhân vật kịch là những nhân vật lịch sử; nhiều tên đất, tên người gắn với triều Lê,... Đúng như lời chỉ dẫn sân khấu của tác giả : sự việc trong vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng năm 1516 - 1517, dưới triều Lê Tương Dực.

 

Câu 2: Nhận xét về ngôn ngữ kịch của Nguyễn Huy Tưởng qua đoạn trích.

Trả lời:

Có thể nêu nhận xét về ngôn ngữ kịch của Nguyễn Huy Tưởng qua đoạn trích theo mấy ý chính sau:

  1. a) Ngôn ngữ kịch Nguyễn Huy Tưởng có tính tổng hợp, tính hành động – biểu cảm rất cao, nhờ vậy có tác dụng rõ rệt trong việc khắc hoạ tính cách, diễn tả tâm lí, dẫn dắt xung đột kịch, tạo nên một bức tranh hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của lịch sử cũng như số phận con người.
  2. b) Nhịp điệu kịch được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động.

– Lời văn nghệ thuật ở đây như ghi lại và làm sống dậy những tiếng reo, tiếng thét, tiếng động dội vào từ hậu trường, phản ánh cục diện tình hình nguy cấp, điên đảo, nhưng chỉ qua mấy lời chú thích nghệ thuật hàm súc của tác giả.

  1. c) Các lời thoại của nhân vật thực sự thể hiện cá tính, tâm lí, tính cách của họ, nhất là lời của Vũ Như Tô, Đan Thiềm.



=> Giáo án Ngữ văn 11 chân trời Bài 5 Đọc 1: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 11 chân trời sáng tạo - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay