Câu hỏi tự luận ngữ văn 11 chân trời sáng tạo Bài 1 văn bản 1: Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 1 văn bản 1: Ai đã đặt tên cho dòng sông?. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo

BÀI 1: THÔNG ĐIỆP TỪ THIÊN NHIÊN 

VĂN BẢN 1: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
(16 câu)

 

1. NHẬN BIẾT (6 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. 

Trả lời:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông học tại Huế hết bậc Trung học; tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1960 và Trường Đại học Huế năm 1964. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ. Ông từng là Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên. Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyển về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí,... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Các tác phẩm bút kí chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ảnh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trải quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999),.

 

Câu 2: Theo em, tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

thuộc thể văn nào? Từ đó, cần phải lưu ý điều gì khi tìm hiểu tác phẩm này?

Trả lời:

- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tác phẩm thuộc thể loại bút kí. Bút kí thường không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực. Bút kí ghi lại những con người, những sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó.

- Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một bài bút kí giàu chất tuỳ bút, về thực chất thuộc thể tuỳ bút. Đặc điểm của thể văn tuỳ bút là hết sức tự do, phóng túng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Theo quan niệm của Nguyễn Tuân, tuỳ bút là lối văn “độc tấu”, trong đó, nhân vật chính là cái tôi của tác giả. Vì thế, xét đến cùng, sự hấp dẫn của tuỳ bút là của cái tôi ấy. 

 

Câu 3: Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau (thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,...).

Trả lời:

Một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau:

- Một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương được miêu tả từ góc nhìn cảnh quan thiên nhiên, địa lí: Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng; từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế; giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;...

- Một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương được miêu tả từ góc nhìn lịch sử: ... dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

– Một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương được miêu tả từ góc nhìn thơ ca: “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan;...

- Một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương được miêu tả từ góc nhìn văn hoá: ... toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya; thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng;...

 

Câu 4: Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản.

Trả lời:

Một số từ ngữ, câu văn cho thấy cái “tôi” của tác giả luôn hiện hữu trong văn bản: 

- Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất

- Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

- Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố...

- Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát

- Tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ

 

Câu 5: Chỉ ra yếu tố tự sự, yếu tố trữ tình và tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên ... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Tìm và phân tích một vài đoạn khác trong văn bản có đặc điểm tương tự.

Trả lời:

– Yếu tố tự sự trong đoạn văn:

+ Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu 

+ Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng luőt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại. Ôi, tôi muốn hoá làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hy Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố...

– Yếu tố trữ tình trong đoạn văn:

+ ... như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long.

+... sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.

+ Ôi, tôi muốn hoá làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển.

+ Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

+ ...

- Tác dụng của việc kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình trong đoạn văn:

+ Yếu tố tự sự không chỉ vẽ lên trong tâm trí người đọc thuỷ trình của sông Hương khi chảy vào thành phố với những đường nét uốn lượn mềm mại, duyên dáng (một nét thẳng thực yên tâm, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến) mà còn mang đến cho độc giả sự cảm nhận rất rõ về cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với một thành phố chỉ dành riêng cho nó sau rất nhiều gian truân, thử thách trên hành trình. Yếu tố tự sự trong đoạn văn còn được thể hiện qua những liên tưởng thú vị của tác giả về sông Nê-va của Lê-nin-grát; để từ đó, tô đậm điệu chảy lặng lờ, chậm rãi rất riêng của sông Hương.

+ Yếu tố trữ tình trong đoạn văn này vừa góp phần khắc hoạ vẻ đẹp thơ mộng của dòng Hương Giang (qua những liên tưởng độc đáo, lãng mạn: đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;...), vừa trực tiếp thể hiện tình cảm của tác giả dành cho dòng sông (ngạc nhiên, thích thú, tự hào khi phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của dòng sông ở đoạn này (đường nét uốn lượn tình tứ, điệu chảy lặng lờ của dòng sông); yêu thương, trìu mến trong cách kiến giải cho điệu slow của dòng sông (vì quá yêu thành phố, quá lưu luyến với người tình mong đợi trước khi chia xa).

Tóm lại, sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ trình vừa làm cho hình tượng sông Hương trong đoạn văn trở nên sinh động, gợi cảm vừa trực tiếp bộc lộ tình cảm của tác giả dành cho dòng sông. Với sự xuất hiện của yếu tố tự sự, đoạn văn không chỉ ghi lại thuỷ trình của dòng sông khi chảy vào thành phố mà còn thể hiện được những tình cảm mà Hương Giang dành riêng cho Huế. Vì thế, hình tượng sông Hương hiện lên không đơn thuần là một dòng sông mà đã được nhân hoá như một cô gái Huế e ấp, dịu dàng, duyên dáng với một vẻ đẹp riêng, khó lẫn trong hành trình tìm về với thành phố thân yêu của nó. Những yếu tố tự sự ấy kết hợp những yếu tố trữ tình đã phần nào giúp người đọc hình dung rõ hơn về những tình cảm, cảm xúc của tác giả dành cho sông Hương và xứ Huế.

 

Câu 6: Hãy chỉ ra phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản. Theo em, phương tiện đó có giúp ích nhiều trong việc hiểu văn bản này không? Em có muốn cho thêm phương tiện nào không?

Trả lời:

- Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản: Hình ảnh sông Hương.

- Nhận xét: Hãy trả lời theo quan điểm của em. Ví dụ: Hình ảnh không giúp người đọc hình dung rõ dòng sông Hương. Tôi nghĩ, ta cần thêm một bản đồ dòng sông để hiểu văn bản tốt hơn.

 

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Chỉ ra một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản.

Trả lời:

- Xác định một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản:

+ So sánh: Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dạ; dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;...

+ Ẩn dụ: Sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở; sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc;...

+ Nhân hoá: Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc; và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ;...

 

Câu 2: Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm.

Trả lời:

- Cảm hứng chủ đạo mà tác giả thể hiện qua văn bản: Ca ngợi vẻ đẹp biến ảo, đầy chất thơ của sông Hương và xứ Huế; yêu tha thiết, đắm say và trân trọng, tự hào đối với những vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên xứ sở, những giá trị lịch sử, bề dày văn hoá và vẻ đẹp tâm hồn của con người ở vùng đất cố đô.

– Cách thể hiện của cảm hứng chủ đạo ấy trong tác phẩm:

+ Thể hiện qua những từ ngữ, câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc, nhận xét, đánh giá của tác giả dành cho sông Hương, xứ Huế: Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất; lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố...; có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu; có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ;...

+ Thể hiện qua cách tác giả lựa chọn sử dụng từ ngữ, hình ảnh khắc hoạ hình tượng sống Hương, xứ Huế trong văn bản: rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn; dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng; uốn mình theo những đường cong thật mềm; dòng sông mềm như tấm lụa; sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long; chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non; dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc;...

+ Thể hiện qua những phát hiện, liên tưởng thú vị, tài hoa, tinh tế và độc đáo của tác giả dành cho sông Hương, xứ Huế: liên tưởng vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn với hình ảnh một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại và hình ảnh người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở; liên tưởng hành trình sông Hương tìm về với thành phố Huế là hành trình của một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại tìm về với người tình mong đợi của nó; điệu chảy lặng lờ của sông Hương trong lòng thành phố được liên tưởng với điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế;... 

+ Thể hiện qua cách nhìn nhận, khám phá đối tượng (hình ảnh sông Hương) ở nhiều góc độ, khía cạnh để phát hiện ra nhiều vẻ đẹp đa dạng của sông Hương.  Bộc lộ tình yêu, niềm say mê, gắn bó với thiên nhiên; sự am hiểu sâu sắc, tường tận, uyên bác về thiên nhiên và văn hoá Huế.

- Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm: Hãy phát biểu theo suy nghĩ của em. Gợi ý:

+ Cảm hứng chủ đạo ấy thể hiện xuyên suốt chiều dài của tác phẩm, được bộc lộ vừa trực tiếp vừa gián tiếp, tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của người đọc khiến độc giả cảm nhận rất rõ tình yêu đắm say, niềm tự hào thương mến của tác giả dành cho dòng sông quê hương.

+ Cảm hứng chủ đạo với những cách thể hiện ấy đã góp phần làm nên chất trữ tình/ chất thơ cho bài tuỳ bút.

+...

 

Câu 3: Theo bạn, vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản hay không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy?

Trả lời:

Vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu tiếp tục được thể hiện trong phần còn lại của văn bản:

- Qua cách cảm nhận độc đáo của tác giả, sông Hương được xem là cội nguồn sinh thành và không gian tồn tại của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế: Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu.

- Không gian bờ sông ấy cũng là nơi lưu giữ một nét văn hoá rất riêng của Huế trong cái sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: ... màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...

- Chính vẻ đẹp phong phú, biến ảo của dòng sông đã khiến nó luôn biết cách làm mới mình, từ đó khơi gợi nguồn cảm hứng vô tậm cho các thi nhân: Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

 

Câu 4: Đoạn văn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ những phẩm chất nào trong ngòi bút của tác giả. Hiệu quả thẩm mĩ của lối viết đó?

Trả lời:

Chú ý đến phần thứ hai (từ “Phải nhiều thế kỉ” đến “quê hương xứ sở”)

Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế:

– Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

– Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp nằm ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng một cách liên tục”, rồi “vòng giữa khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, rồi “vượt qua”, “đi trong dư vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”...

- Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên những mảng phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc” khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”...

 Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

 

Câu 5: Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế có nét đặc trưng gì? Phát hiện của tác giả về nét riêng biệt của dòng sông cho thấy những điều gì trong tình cảm của tác giả với xứ Huế và dòng sông?

Trả lời:

Sông Hương khi chảy vào thành phố:

- Như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,... nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và, với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả, khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”...

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Việc tác giả có những phát hiện đặc biệt về sông Hương đã đem đến cho bạn bài

học gì về cách quan sát, cảm nhận cuộc sống xung quanh?

Trả lời:

Hãy trả lời theo quan điểm của em. Ví dụ:

– Muốn có được những phát hiện về cảnh sắc thiên nhiên, vạn vật quanh mình, chúng ta cần nuôi dưỡng một tình yêu tha thiết, mê đắm và hoà mình trọn vẹn với thiên nhiên để cảm nhận từng vẻ đẹp độc đáo của vạn vật.

- Cần tiếp cận, khám phá vạn vật ở nhiều góc độ khác nhau để nhìn nhận đối tượng một cách toàn diện hơn.

– Trong quá trình khám phá thiên nhiên, cần kết hợp với việc tìm hiểu tri thức về đối tượng để có điều kiện khám phá, phát hiện những khía cạnh độc đáo của thiên nhiên.

 

Câu 2: Hãy phân tích những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông Hương dưới ngòi bút của nhà văn và đặt tên cho những vẻ đẹp ấy.

Trả lời:

Qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, có thể thấy tác giả đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp khác nhau của sông Hương bằng hai cách tiếp cận dòng sông này:

– Một là trực tiếp quan sát, tìm hiểu sông Hương từ thượng nguồn của nó tới khi nó xuôi về kinh thành Huế, qua nhiều phong cảnh khác nhau.

– Hai là gián tiếp tìm hiểu qua thơ văn của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu.

  1. a) Các vẻ đẹp của sông Hương được phát hiện từ cách tiếp cận thứ nhất: Nhờ óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp khác nhau của sông Hương, đồng thời đặt tên luôn cho những vẻ đẹp ấy. Chẳng hạn, ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp "phóng khoáng man dại" như một cô gái Di-gan. Khi ra khỏi rừng, nó lại trở nên "dịu dàng và trí tuệ", "mềm như tấm lụa" ; qua Tam Thai, Vọng Cảnh, nó lại luôn luôn đổi màu "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" ; đến những vùng rừng thông u tịch, những lăng tẩm vua chúa, nó lại có vẻ đẹp "trầm mặc", "như triết lí, như cổ thi" ; có lúc giảm lưu tốc, nó chỉ còn là "mặt hồ yên tĩnh" ; rời khỏi kinh thành, xuôi về Cồn Hến, nó là dòng sông "quanh năm mơ màng trong sương khói",...
  2. b) Các vẻ đẹp của sông Hương được phát hiện từ cách tiếp cận thứ hai qua thơ văn: ở đây, sự phát hiện khác nhau về vẻ đẹp của sông Hương phụ thuộc vào tư tưởng và phong cách mỗi nhà thơ (Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu, Nguyễn Du). Đúng như tác giả viết, nó "không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ".

 

Câu 3: Em có nhận xét gì về đặc sắc của những cách ví von, so sánh sau đây của tác giả:

- "[...] phía đó, nơi cuối đường, nó (sông Hương) đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non". 

- "Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vàng" không nói ra của tình yêu".

- "Sông Hương là vậy, là dòng sông [...] của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc".

Trả lời:

- Chiếc cầu trắng nhìn từ xa mà ví với vành trăng non thì thật tuyệt vời. Có màu sắc chiếc cầu, có ánh sáng bầu trời, có nét dịu dàng duyên dáng của cô gái Huế. Có một cái gì bừng sáng nhưng không chói gắt ở chân trời xa, thể hiện một niềm vui mà không ồn ào.

- So sánh "[...] như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu" biểu hiện sự thuận tình mà không nói ra vì e lệ. Thực ra tình yêu có cách nói riêng, có tiếng "vâng" riêng của nó, chẳng hạn một cách chớp mắt, một cách cúi đầu như thế nào đó. Đây là một cách diễn đạt tinh tế của tác giả về cái vẻ tình tứ mà kín đáo của những cô gái Huế.

- "Sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc" – sử thi là chiến công, là cái hùng thường đi với màu đỏ. Nhưng sông Hương là "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc" – sử thi mà trữ tình, hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát, đó là nét độc đáo của Huế.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Em có nhận xét gì về đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Trả lời:

Qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, thấy hiện lên đậm nét hình ảnh của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường với những đặc điểm nổi bật sau :

– Uyên bác (có một vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, về văn hoá, nghệ thuật của Huế);

– Tinh tế, tài hoa, một nhà thơ thật sự trong văn xuôi viết về sông Hương và Huế;

– Giàu trí tưởng tượng (thể hiện ở những liên tưởng, so sánh rất độc đáo);

– Yêu tha thiết sông Hương và cố đô Huế.

 

Câu 2: Qua đoạn trích, em có nhận xét gì về nét riêng trong văn phong của tác giả?

Trả lời:

- Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. 



=> Giáo án Ngữ văn 11 chân trời Bài 1 Đọc 1: Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 11 chân trời sáng tạo - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay