Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều Ôn tập bài 3: Truyện (P2)

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 3: Truyện. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Cánh diều.

ÔN TẬP BÀI 3. TRUYỆN (PHẦN 2)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản Chữ người tử tù (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

- Tác giả: Nguyễn Tuân - Tác giả: Nguyễn Tuân

- Thể loại: Truyện ngắn - Thể loại: Truyện ngắn

- Truyện ngắn ngày lúc đầu có tên là  - Truyện ngắn ngày lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn, sau đso được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù.

- Trong truyện, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước. - Trong truyện, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.

- Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình. - Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân.

Trả lời:

- Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Từ nhỏ, ông theo gia đình sống ở nhiều tỉnh miền Trung. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay) ở Nam Định, sau đó về Hà Nội viết văn và làm báo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ 1948 đến 1958, ông là Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. - Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Từ nhỏ, ông theo gia đình sống ở nhiều tỉnh miền Trung. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay) ở Nam Định, sau đó về Hà Nội viết văn và làm báo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ 1948 đến 1958, ông là Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.

- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tuỳ bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Năm 1996, Nguyễn Tuân được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. - Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tuỳ bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Năm 1996, Nguyễn Tuân được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Câu 3: Hãy trình bày về đặc điểm và tác dụng của sự thay đổi điểm nhìn trong truyện.

Trả lời:

- Trong quá trình trần thuật, điểm nhìn có thể được chuyển từ người kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, giúp đi sâu vào nội tâm nhân vật, mở rộng khả năng bao quát, nhận xét, đánh giá của người trần thuật. Song, xét đến cùng, mọi cách nhìn, xuất phát từ mọi điểm nhìn đều trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan niệm, tư tưởng, thái độ của nhà văn. Điều đó giúp cho nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên; đồng thời, tạo cho tác phẩm nhiều giọng điệu đan xen lẫn nhau, phong phú và biến hoá, làm nên sức hấp dẫn đối với người đọc. - Trong quá trình trần thuật, điểm nhìn có thể được chuyển từ người kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, giúp đi sâu vào nội tâm nhân vật, mở rộng khả năng bao quát, nhận xét, đánh giá của người trần thuật. Song, xét đến cùng, mọi cách nhìn, xuất phát từ mọi điểm nhìn đều trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan niệm, tư tưởng, thái độ của nhà văn. Điều đó giúp cho nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên; đồng thời, tạo cho tác phẩm nhiều giọng điệu đan xen lẫn nhau, phong phú và biến hoá, làm nên sức hấp dẫn đối với người đọc.

Câu 4: Cho đoạn trích sau:

Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vắng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.

Đặc điểm của ngôn ngữ viết được thể hiện như thế nào trong đoạn trích trên?

Trả lời:

– Trong đoạn văn trên, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất dụng công trong việc trau chuốt từ ngữ và cấu trúc câu để gợi ra một không khí truyện cổ xưa, trang trọng, chuẩn bị cho một sự kiện đặc biệt sắp xảy đến. Câu văn dài, nhịp điệu chậm rãi, có những cách diễn đạt khá cầu kì: “Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt”, “Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương”, “Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Các chi tiết về ánh sáng, bóng tối, âm thanh hô ứng với nhau, như một cảnh trong phim.

Câu 5: Cần lưu ý gì trong việc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Tuỳ hoàn cảnh và mục đích giao tiếp, chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Nhưng nếu đã sử dụng ngôn ngữ ở dạng nào thì cần đảm bảo sự nhất quán trong cách dùng từ ngữ, đặt câu phù hợp với dạng đó. Tình trạng lạc phong cách (dùng các phương tiện đặc trưng của ngôn ngữ nói cho văn bản viết và ngược lại) là điều cần tránh, ví dụ như trường hợp dưới đây: - Tuỳ hoàn cảnh và mục đích giao tiếp, chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Nhưng nếu đã sử dụng ngôn ngữ ở dạng nào thì cần đảm bảo sự nhất quán trong cách dùng từ ngữ, đặt câu phù hợp với dạng đó. Tình trạng lạc phong cách (dùng các phương tiện đặc trưng của ngôn ngữ nói cho văn bản viết và ngược lại) là điều cần tránh, ví dụ như trường hợp dưới đây:

“Chí Phèo là truyện ngắn đỉnh nhất của Nam Cao. Tác phẩm đã miêu tả quá ư chân thực tâm lí của người nông dân trong xã hội cũ.”

Trong ví dụ trên, người viết đã mắc lỗi phong cách khi sử dụng những từ ngữ mang đậm tính khẩu ngữ: “đỉnh”, “quá ư”.

Câu 6: Sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trong văn bản nghệ thuật tạo ra hiện tượng gì? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trong văn bản nghệ thuật tạo ra một số hiện tượng đặc biệt về lời văn như lời nửa trực tiếp (lời của người kể chuyện nhưng tái hiện ý thức, giọng điệu của nhân vật), lời độc thoại nội tâm (tái hiện tiếng nói bên trong các nhân vật), lời nhại (lời trần thuật mô phỏng quan điểm, ý thức của nhân vật với chủ ý mỉa mai hay bông đùa),... Ví dụ: - Sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết trong văn bản nghệ thuật tạo ra một số hiện tượng đặc biệt về lời văn như lời nửa trực tiếp (lời của người kể chuyện nhưng tái hiện ý thức, giọng điệu của nhân vật), lời độc thoại nội tâm (tái hiện tiếng nói bên trong các nhân vật), lời nhại (lời trần thuật mô phỏng quan điểm, ý thức của nhân vật với chủ ý mỉa mai hay bông đùa),... Ví dụ:

“Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà? Ai thế nhỉ?”

Đoạn văn miêu tả tâm lí bà cụ Tứ trên đây có sự xuất hiện của nhiều câu văn mang hình thức lời nửa trực tiếp. Lời của người kể chuyện nương theo ý thức của nhân vật, tái hiện những “tiếng nói” đang vang lên trong nhân vật. Một số cách diễn đạt mang dấu ấn của khẩu ngữ được bảo lưu trong lời kể: Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?; Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà?...

- Khả năng miêu tả ngôn ngữ gắn liền với những đặc điểm cá thể của nhân vật (xuất thân, địa phương, môi trường sống, tầng lớp xã hội,..) là một bước tiến của tự sự hiện đại. - Khả năng miêu tả ngôn ngữ gắn liền với những đặc điểm cá thể của nhân vật (xuất thân, địa phương, môi trường sống, tầng lớp xã hội,..) là một bước tiến của tự sự hiện đại.

Câu 7: Phân tích những đặc điểm của ngôn ngữ nói được ghi lại trong đoạn trích sau:

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy! Thị cong cớn:

– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.

Trả lời:

Để phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn trích, cần chú ý: – Các từ hồ gọi trong lời nhân vật: Kìa; Này, ... ơi; ... nhỉ,..

– Các từ tình thái trong lời nhân vật: Có khối... đấy, đấy, Thật đấy,...

– Các kết cấu câu trong ngôn ngữ nói: Có... thì, Đã... thì...

– Các từ ngữ thường dùng trong ngôn ngữ nói: mấy (giò), có khối, nói khoác, sợ gì, đằng ấy,...

– Sự phối hợp giữa lời nói và cử chỉ: cười như nắc nẻ, cong cớn, liếc mắt, cười tít,...

Câu 8: Hãy khái quát về giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.

Trả lời:

– Để xã hội tồn tại và phát triển, con người cần phải giao tiếp.

– Con người có thể giao tiếp bằng nhiều loại phương tiện khác nhau (điệu bộ, kí hiệu, hình vẽ, âm nhạc, v.v.). Trong đó, ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.

– Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là một trong những hoạt động cơ bản của con người. Hoạt động này bao gồm hai quá trình: tạo lập văn bản lĩnh hội văn bản. Tạo lập văn bản chính là nói hoặc viết để truyền đạt thông tin. Lĩnh hội văn bản chính là nghe hoặc đọc để tiếp nhận thông tin.

– Có thể thấy trong văn bản có hai loại thông tin chính: thông tin miêu tả và thông tin liên cá nhân. Thông tin miêu tả là những thông tin về một đối tượng, một thế giới nào đó, hiện thực hoặc tưởng tượng. Còn thông tin liền cá nhân là những thông tin thể hiện quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp, được thể hiện kèm theo thông tin miêu tả. Trong giao tiếp, hai loại thông tin này đều quan trọng. Tuy nhiên, tuỳ theo tình huống giao tiếp cụ thể mà loại thông tin này hoặc loại thông tin kia có thể trội hơn, đóng vai trò chính. Chẳng hạn, đối với một bản tin dự báo thời tiết thì thông tin miêu tả là quan trọng, nhưng đối với câu chuyện giữa hai người mới quen nhau ở bến đợi xe buýt thì thông tin liên cá nhân thường quan trọng hơn, trong trường hợp này, người ta nói về thời tiết, về sự kiện A, sự kiện B,... có thể cốt chỉ để thể hiện một sự quan tâm đến nhau, muốn gây thiện cảm với nhau.

Câu 9: Tìm trong văn bản Chí Phèo những đoạn có sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.

Trả lời:

Một số đoạn trong văn bản Chí Phèo có sự cộng hưởng giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết:

1) Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì nó có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng

vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...

2) Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hơn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!

3) Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy bộ điệu hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại nhăm nhăm cầm cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt rồi mặc thay cha nó, nó có chửi thì tai liền miệng đấy, chửi rồi lại nghe! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ĩ! Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới được nghe người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngoắt làm sao! Họ bảo nhau: “Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”. Cũng có người hiền lành hơn thì bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc ông lí không có nhà...”. Ông lí đây là ông lí Cường, con giai cụ bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm như rác. Phải ông lí Cường thử có nhà xem nào! Quả nhiên họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát: “Mày muốn lôi thôi gì?... Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?...”. Đã bảo mà! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lí Cường. Lí Cường đã về! Lí Cường đã về! Phải biết... A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang” một cái. Thôi, phải rồi, hắn đập cái chai vào cột cổng... Ô hắn kêu! Hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!

Câu 10: Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là “một tấm lòng trong thiên hạ”, và tác giả coi đó là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”?

Trả lời:

- Không chỉ Huấn Cao, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng là một nhân vật độc đáo. Tuy không phải là người làm nghệ thuật, nhưng ngục quan là người có một tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài: say mê và quý trọng cái tài, cái đẹp. Viên quản ngục say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách cao thượng của Huấn Cao nên chân thành, cung kính biệt đãi ông. Mặc dù Huấn Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh mạn đối với viên quản ngục, nhưng hằng ngày quản ngục vẫn sai người dâng rượu và thức nhắm, đồng thời nói năng với người tử tù nhất mực cung kính. Trước Huấn Cao, quản ngục tự thấy mình chỉ là một "kẻ tiểu lại giữ từ" thấp hèn. Chính vì say mê cái đẹp, cảm phục tài năng và nhân cách của Huấn Cao nên ngục quan đã bất chấp luật pháp, làm đảo lộn trật tự trong nhà tù, biển một kẻ tử tù thành một thần tượng để tôn thờ. Ở đây, vẻ đẹp của ngục quan được thể hiện ở thái độ sùng kính Huấn Cao – hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái "thiên lương" cao cả. Và việc biệt đãi tử tù của ông cần được xem như một hành vi dũng cảm. Vẻ đẹp của quản ngục còn được thể hiện trong tư thế khúm núm, thái độ trân trọng đối với Huấn Cao qua hành vi vái người tù một vái, chắp tay nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" ở cuối tác phẩm. - Không chỉ Huấn Cao, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng là một nhân vật độc đáo. Tuy không phải là người làm nghệ thuật, nhưng ngục quan là người có một tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài: say mê và quý trọng cái tài, cái đẹp. Viên quản ngục say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách cao thượng của Huấn Cao nên chân thành, cung kính biệt đãi ông. Mặc dù Huấn Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh mạn đối với viên quản ngục, nhưng hằng ngày quản ngục vẫn sai người dâng rượu và thức nhắm, đồng thời nói năng với người tử tù nhất mực cung kính. Trước Huấn Cao, quản ngục tự thấy mình chỉ là một "kẻ tiểu lại giữ từ" thấp hèn. Chính vì say mê cái đẹp, cảm phục tài năng và nhân cách của Huấn Cao nên ngục quan đã bất chấp luật pháp, làm đảo lộn trật tự trong nhà tù, biển một kẻ tử tù thành một thần tượng để tôn thờ. Ở đây, vẻ đẹp của ngục quan được thể hiện ở thái độ sùng kính Huấn Cao – hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái "thiên lương" cao cả. Và việc biệt đãi tử tù của ông cần được xem như một hành vi dũng cảm. Vẻ đẹp của quản ngục còn được thể hiện trong tư thế khúm núm, thái độ trân trọng đối với Huấn Cao qua hành vi vái người tù một vái, chắp tay nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" ở cuối tác phẩm.

- Như vậy, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, ngục quan có những phẩm chất khiến ông Huấn Cao cảm kích coi là "một tấm lòng trong thiên hạ", và tác giả coi đó là "cái thuần khiết giữa một đống cặn bã", "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". - Như vậy, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, ngục quan có những phẩm chất khiến ông Huấn Cao cảm kích coi là "một tấm lòng trong thiên hạ", và tác giả coi đó là "cái thuần khiết giữa một đống cặn bã", "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".

Câu 11: Phân tích để làm rõ vị trí quan trọng của đoạn văn tả Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà tù. Vì sao tác giả gọi đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"? Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu được sử dụng trong đoạn văn này là gì?

Trả lời:

- Đoạn văn tả Huấn Cao cho chữ viên quản ngục có vị trí rất quan trọng trong thiên truyện: chủ đề của truyện được sáng tỏ cùng với sự thể hiện đầy đủ tính cách của Huấn Cao và viên quản ngục.  - Đoạn văn tả Huấn Cao cho chữ viên quản ngục có vị trí rất quan trọng trong thiên truyện: chủ đề của truyện được sáng tỏ cùng với sự thể hiện đầy đủ tính cách của Huấn Cao và viên quản ngục.

- Tác giả gọi đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", vì chưa bao giờ trong nhà tù lại có một sự đảo ngược bất thường như thế: đảo ngược trật tự xã hội, đảo ngược vị thế nhân vật, đảo ngược môi trường của nghệ thuật và của thiên lương. Trong nhà tù mà giữ vị thế làm chủ lại là người tù chứ không phải quản ngục, là ánh sáng chứ không phải bóng tối, là cái đẹp chứ không phải cái xấu xa, nhơ bẩn, là thiên lương chứ không phải tội ác.  - Tác giả gọi đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", vì chưa bao giờ trong nhà tù lại có một sự đảo ngược bất thường như thế: đảo ngược trật tự xã hội, đảo ngược vị thế nhân vật, đảo ngược môi trường của nghệ thuật và của thiên lương. Trong nhà tù mà giữ vị thế làm chủ lại là người tù chứ không phải quản ngục, là ánh sáng chứ không phải bóng tối, là cái đẹp chứ không phải cái xấu xa, nhơ bẩn, là thiên lương chứ không phải tội ác.

- Trong đoạn văn này, thủ pháp đối lập được sử dụng rất đắc địa, gây ấn tượng rất mạnh. - Trong đoạn văn này, thủ pháp đối lập được sử dụng rất đắc địa, gây ấn tượng rất mạnh.

Câu 12: Hãy nhận xét về quan điểm thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện trong truyện Chữ người tử tù.

Trả lời:

- Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân thể hiện ở vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao: tài hoa thống nhất với khí phách, với thiên lương. - Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân thể hiện ở vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao: tài hoa thống nhất với khí phách, với thiên lương.

-  - Chữ người tử tù là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tiếp cận thế giới thiên về phương diện văn hoá, nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ; tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Vì thế các nhà nghiên cứu phê bình văn học thường gọi ông là "người đi tìm cái đẹp".

Câu 13: Em hãy nêu giá trị nội dung của bài Tấm lòng người mẹ.

Trả lời:

 - Giá trị nội dung:

  • Đoạn trích ghi lại một cách cảm động và chân thực những nỗi bất hạnh, đắng cay, tủi cực cùng tình yêu thương mãnh liệt của của người mẹ dành cho đứa con của mình. Qua đây người đọc thấy tình cảm mẫu tử thiêng liêng, dạt dào không gì có thể thay đổi.

Câu 14: Em hãy nêu giá trị nghệ thuật của bài Tấm lòng người mẹ.

Trả lời:

 - Giá trị nghệ thuật:

  • Nghệ thuật miêu tả ngoại hình làm nổi bật tính cách và nội tâm nhân vật.
  • Bên cạnh yếu tố tự sự, truyện đan xen các yếu tô miêu tả, biểu cảm thấm đượm chất trữ tình, lời văn tự sự sâu sắc giúp diễn tả tinh tế nội tâm nhân vật. 

Câu 15: Văn bản Chí Phèo có thể chia thành mấy phần? Nêu ý chính của từng phần.

Trả lời:

Có thể chia văn bản thành 6 phần:

– Phần 1 (Từ đầu đến Lược một đoạn): Chí Phèo say rượu "vừa đi vừa chửi"

– Phần 2 (Từ “Hắn về lớp này trông khác hẳn” đến Lược một đoạn): Chí Phèo ở tù về, đến nhà bá Kiến rạch mặt ăn vạ

– Phần 3 (Từ “Khi Chí Phèo mở mắt” đến “hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”): Chí Phèo thức tỉnh, sống trong tình yêu và sự săn sóc của thị Nở

– Phần 4 (Từ “Thấy thị hỏi” “lúc ra đi chúng định làm”): Thị Nở từ chối Chí Phèo

– Phần 5 (Từ “Trời nắng lắm, nên đường vắng” đến “thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra”): Chí Phèo tuyệt vọng, uất ức đi đòi lương thiện, giết bá Kiến và tự kết liễu đời mình

– Phần 6: (Từ “Cả làng Vũ Đại nhao lên” đến hết): Cảnh xôn xao của làng Vũ Đại và hình ảnh thoáng hiện cái lò gạch cũ.

Câu 16: Nhan đề đầu tiên của truyện ngắn này là Cái lò gạch cũ, nhưng khi in thành sách, nhà xuất bản tự ý đổi thành Đôi lứa xứng đôi; mãi đến năm 1946, tác giả mới đặt lại là Chí Phèo. Hãy nhận xét hai cái tên đầu tiên.

Trả lời:

– Đặt tên truyện là Cái lò gạch cũ, phải chăng tác giả muốn nói đến sự luẩn quẩn bế tắc, gắn với hình ảnh Chí Phèo ở đầu truyện, khi còn là thằng bé đỏ hỏn được cuốn trong một cái váy đụp vứt ở cái lò gạch bỏ hoang và hình ảnh cuối truyện: Thị Nở sau khi nghe tin Chí Phèo đâm chết bá Kiến và tự sát một cách khủng khiếp đã nhớ lại những lúc gần gũi với hắn và nhìn nhanh xuống bụng rồi thoáng thấy hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không ở nơi vắng người lại qua ? Có thể sẽ có một Chí Phèo con ra đời cũng ở cái lò gạch ấy để "nối nghiệp" bố. Như vậy Cái lò gạch cũ như là biểu tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.

– Còn nhan đề Đôi lứa xứng đôi thì hướng sự chú ý vào Chí Phèo và thị Nở – một con "quỷ dữ của làng Vũ Đại" mặt mũi bị "vằn dọc vằn ngang" và một mụ đàn bà xấu "ma chê quỷ hờn". Cách đặt tên Đôi lứa xứng đôi là rất giật gân, gây sự tò mò, phù hợp với thị hiếu của một lớp công chúng bấy giờ.

Câu 17: Phân tích nỗi đau của Chí Phèo khi bị từ chối quyền làm người. Em đánh giá như thế nào về tính chất điển hình của nhân vật này?

Trả lời:

Khi giải bài tập này, với yêu cầu thứ nhất, cần lưu ý:

– Nỗi đau của Chí Phèo gắn liền với bi kịch trong cuộc đời nhân vật: bi kịch bị tha hoá và bi kịch bị từ chối quyền làm người; tất nhiên, chỉ từ khi tỉnh rượu, ý thức được bi kịch, Chí Phèo mới cảm thấy đau đớn.

– Phân tích một số chi tiết cụ thể trực tiếp bộc lộ nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Chí Phèo khi biết mình bị thị Nở từ chối và "không thể làm người lương thiện" được nữa (ví dụ: "Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn cứ ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Rồi lại uống”; hoặc: "Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không!... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!...".

– Nỗi đau tột cùng vừa cho thấy sự bi đát trong số phận, vừa cho thấy niềm khát khao lương thiện cháy bỏng của Chí Phèo, đồng thời cũng cho thấy cái nhìn hiện thực mang tính phát hiện và chiều sâu trong chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao.

Với yêu cầu thứ hai, cần lưu ý:

– Đưa ra lời giải thích ngắn gọn về khái niệm "điển hình" (cần nhấn mạnh yêu cầu thống nhất giữa tính riêng độc đáo với tính chung, tính tiêu biểu của một điển hình văn học).

– Phân tích, đánh giá những phẩm chất nghệ thuật của hình tượng Chí Phèo. (Có thể khẳng định: Chí Phèo là một điển hình, kết hợp hài hoà, sinh động giữa tính riêng và tính chung).

Câu 18: Nêu những diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Vì sao khi bị thị Nở dứt tình, Chí Phèo lại xách dao đi giết bá Kiến và tự sát? Bi kịch lớn nhất của Chí Phèo được thể hiện trong truyện là gì?

Trả lời:

a) Có thể nêu tóm tắt diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau cuộc gặp thị Nở như sau: thức tỉnh – hi vọng – thất vọng, đau đớn – phẫn uất – tuyệt vọng.

– Đó là một quá trình tâm lí phức tạp, đầy tính bất ngờ, đột biến, nhưng có lô gích, đúng quy luật tâm lí. Thức tỉnh, không chỉ là để biết hi vọng mà còn để biết tuyệt vọng, biết báo thù. Việc Chí Phèo giết bá Kiến rồi tự sát là theo quy luật tâm lí giải toả bế tắc của một kẻ cố cùng liều thân. Ở đây, chính sự từ chối của thị Nở đã kéo Chí Phèo trở về với thực tại và nhận ra, bằng tiềm thức, kẻ thù của mình trước hết vẫn là bá Kiến. Và mâu thuẫn Chí Phèo – bá Kiến là mâu thuẫn không thể điều hoà được, trước sau gì cũng bùng nổ dữ dội.

b) Về số phận và tâm trạng bi kịch đau đớn của Chí Phèo

Số phận của Chí Phèo là số phận bi kịch, rất đau đớn. Số phận ấy được Nam Cao miêu tả theo hai quá trình: bị tha hoá và bị cự tuyệt quyền làm người.

– Quá trình bị tha hoá diễn ra sau khi Chí Phèo ở tù về. Anh canh điền hiền như đất trước khi đi ở tù, bây giờ càng lúc càng trở nên liều lĩnh, hung hãn, để rồi thành quỷ dữ, thành nỗi kinh hoàng của cả làng Vũ Đại. Tính chất bi kịch ở đây được Nam Cao khơi sâu khi nhà văn đặt Chí Phèo vào cảnh ngộ đặc biệt đáng lo ngại: Không phải bá Kiến, mà chính Chí Phèo, khi đã bị biến thành tay sai của cụ bá xảo quyệt "róc đời", tự huỷ hoại nhân hình, nhân tính của mình mà không hay biết. Thậm chí còn lấy làm vênh vang, đắc chí; anh hùng ở làng Vũ Đại "cóc thằng nào bằng ta”! Những dấu tích của tha hoá hằn in trên gương mặt, bộ dạng, trong tiếng chửi, và trong từng ngộ nhận của nhân vật này.

– Quá trình bị từ chối quyền làm người, thực ra đã bắt đầu từ lâu, nó diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Nhưng phải từ sau khi gặp thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thực sự bắt đầu.

Số phận ấy còn được thể hiện tập trung qua tâm trạng đầy bi kịch và kết cục bi thảm của Chí Phèo. Đó là một buổi sáng thật trong lành: bao nhiêu âm thanh bình dị mà thân thiết, êm đềm đã dội vào lòng, thức tỉnh những cảm xúc thuộc về con người trong Chí Phèo. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của người đi chợ về,... tất cả gợi nhắc giấc mơ xa xôi của một thời : một mái nhà tranh, một gia đình nho nhỏ,... Chí Phèo thấy mình cô độc, thấy sợ cô độc, nhất là khi đã già yếu. Rồi bát cháo hành của thị Nở mang cho, cùng với sự chăm sóc, yêu thương mộc mạc lần đầu tiên Chí Phèo nhận được. Tất cả tạo thành một không khí, một thứ hương vị riêng ngọt ngào hạnh phúc. Nhưng Chí Phèo không "xứng đôi" với thị Nở. Dưới mắt bà cô, Chí Phèo chỉ có thể là quỷ dữ, không thể là người. Vì thế, Chí Phèo mới bị thị Nở – người đàn bà tập trung đủ mọi cái xấu, cái thua thiệt trên đời – phũ phàng cự tuyệt. Còn gì bi đát và đau đớn tuyệt vọng hơn: "Hắn ôm mặt khóc rưng rức". Nỗi đau ấy khiến Chí Phèo muốn ra đi trả thù và đẩy anh đến một hành động dữ dội, quyết liệt: "đâm chết nó". Nhưng "nó" là ai? Tiềm thức mách bảo Chí Phèo, đó là bá Kiến. Song, dù bá Kiến có chết, Chí Phèo cũng "không thể là người lương thiện". Hai cái xác chết, một con dao vấy máu, một vũng máu tươi, thật là bi thảm, nhưng đó chưa phải là đoạn kết cho một cuộc đời bi kịch. Chí Phèo chết vẫn chưa hết "chuyện". Bi kịch số phận nhân vật vẫn còn tiếp tục cho những số phận kiểu Chí Phèo.

Câu 19: Phân tích hình tượng nhân vật bá Kiến.

Trả lời:

– Đây là một trong số những nhân vật điển hình xuất sắc, được xây dựng đặc biệt thành công của văn học hiện thực nói chung và của Nam Cao nói riêng.

– Trong tiểu thuyết Tắt đèn, khi xây dựng nhân vật địa chủ nghị Quế keo kiệt, thô lỗ, Ngô Tất Tố đã mô tả khá rõ gia cảnh, rồi đến những hành động và cử chỉ của hắn. Nhưng đối với bá Kiến, Nam Cao không hề tả diện mạo, chỉ nói đến giọng nói ngọt nhạt, tiếng quát "rất sang" và "cái cười Tào Tháo" mà y tự phụ là hơn đời. Bằng vài chi tiết, nhưng nhà văn đã tạo cho bá Kiến những nét độc đáo, khiến người đọc khó quên. Tuy vậy, nhân vật này trở thành sống động chủ yếu do năng lực miêu tả nội tâm sắc sảo của tác giả.

– Nhà văn để cho bá Kiến xuất hiện lần đầu trước độc giả đúng lúc Chí Phèo say rượu, đến cổng nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ. Cảnh tượng thật hỗn loạn, huyên náo. Thoáng nhìn qua, bá Kiến đã "hiểu cơ sự", hắn nhanh chóng tìm ra được kế sách thích hợp nhất để đối phó. Với sự từng trải, bá Kiến biết rất rõ tác hại của đám đông đang tụ tập kia. Bố con bá Kiến thêm mất mặt, nếu để dân làng chứng kiến hành động thô lỗ của Chí. Cụ bá cũng thừa biết tâm lí của những thằng đầu bò như Chí Phèo: đám đông kia chính là hậu thuẫn, kích thích để nó hung hăng hơn. Cũng cần phải có thời gian để Chí Phèo đã rượu, đỡ táo tợn. Vả lại, nếu còn đám đông, bá Kiến khó có thể diễn thành công mánh khoé mua chuộc, dụ dỗ. Muốn dụ dỗ ắt phải nhún nhường. Đường đường là một cụ bá "hét ra lửa" mà để đám dân đen chứng kiến cảnh phải ngọt nhạt với thằng cùng đinh thì còn ra thể thống gì? Bởi vậy, việc đầu tiên bá Kiến tìm cách giải tán đám đông, trước hết hắn quát mấy bà vợ và đuổi họ vào nhà. Những người đến xem không thể không hiểu đây là cụ bá đuổi khéo mình. Tiếp theo, quay sang bọn người làng, dịu giọng hơn một chút, cụ bảo: "Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?". Đến đây tất nhiên không ai nói gì, họ lảng dần đi. Cho dù có tò mò, muốn biết sự tình, nhưng họ vẫn nể, vẫn sợ cụ bá. Vả lại, ngay vợ cụ cũng phải vào nhà rồi... Đến khi chỉ "còn trơ lại Chí Phèo", cụ bắt đầu giở giọng đường mật, gọi đầy tớ cũ của mình – nay đã bị biến thành con vật gớm ghiếc – bằng "anh", vồn vã mời Chí vào nhà uống nước. Chưa đủ, cụ tiên chỉ làng Vũ Đại còn nhận có họ hàng với anh cùng đinh khốn khổ này, rồi giết gà, mua rượu cho hắn uống, rồi còn đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc.

– Cách cư xử ấy, chứng tỏ cụ bá lõi đời đã đi guốc vào bụng dạ Chí Phèo lúc này: vừa ưa phỉnh nịnh, vừa hám cái lợi trước mắt. Rốt cuộc, bá Kiến "khôn róc đời" chuyển bại thành thắng, đạt được cả hai mục đích: vừa tạm dập tắt ngọn lửa hờn căm trong con người Chí, vừa chuẩn bị biến Chí thành tay sai lợi hại. Như vậy, chỉ qua tình huống trên cái xảo quyệt, lọc lõi của tên cường hào bá Kiến được thể hiện một cách sinh động và đầy ấn tượng.

– Cái nham hiểm ghê người của bá Kiến còn ở chỗ tìm cách làm cho lũ đàn em, hoặc đám dân làng "sinh chuyện", tức là chém giết, đốt phá lẫn nhau để hắn "có dịp mà ăn”!

Bên cạnh việc khắc hoạ sinh động bản chất xảo quyệt, gian hùng của bá Kiến, Nam Cao không quên vạch trần nhân cách bỉ ổi của tiên chỉ làng Vũ Đại trong những mối quan hệ kín đáo. Và nhà văn tài năng ở chỗ, khi cần đặc tả sự đê tiện và thói dâm ô vô độ của tên cường hào này, ông đã bỏ qua nhiều chi tiết rất cụ thể và phong phú của nguyên mẫu lí Bính ở làng Đại Hoàng quê ông. Ngay cái việc gỡ gạc của cụ lí đối với người đàn bà vắng chồng, lại có tiền, lẫn máu ghen tuông của hắn cũng chỉ được lướt qua. Tác giả chỉ để mấy dòng tả ý nghĩ của cụ bá về người vợ thứ tư trẻ đẹp ngồn ngộn sức sống ("Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ. Khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng"). Chỉ một vài chi tiết, nhưng nhờ sự chọn lọc nên vẫn đủ sức khắc sâu trong người đọc về một nhân cách thảm hại.

è Như vậy, bá Kiến vừa mang bản chất chung của giai cấp địa chủ cường hào, vừa có những nét riêng biệt sinh động, không giống bất cứ một nhân vật địa chủ nào trong văn học đương thời. Điều đó giải thích vì sao hắn luôn được chúng ta nhắc đến, khi cần ám chỉ một kẻ có quyền, có chức, nham hiểm và gian hùng. Nhân vật này ghi nhận trình độ xây dựng nhân vật điển hình bậc thầy của Nam Cao, với tư cách là nhà văn hiện thực xuất sắc.

Câu 20: Không khí cổ xưa "vang bóng một thời" trong truyện Chữ người tử tù được tác giả tạo dựng bằng những yếu tố nào?

Trả lời:

- Một trong những thành công về nghệ thuật của truyện là đã tạo dựng được không khí cổ kính của một thời xưa còn "vang bóng". Mọi cảnh vật, đồ vật, hành vi, lời lẽ của con người đều được chọn lựa và diễn tả bằng ngôn ngữ của thời xưa, có tác dụng đẩy thời gian lùi về quá khứ và tạo một không gian tĩnh lặng, trong đó sinh hoạt của con người diễn ra với nhịp điệu từ tốn, chậm rãi. - Một trong những thành công về nghệ thuật của truyện là đã tạo dựng được không khí cổ kính của một thời xưa còn "vang bóng". Mọi cảnh vật, đồ vật, hành vi, lời lẽ của con người đều được chọn lựa và diễn tả bằng ngôn ngữ của thời xưa, có tác dụng đẩy thời gian lùi về quá khứ và tạo một không gian tĩnh lặng, trong đó sinh hoạt của con người diễn ra với nhịp điệu từ tốn, chậm rãi.

- Lưu ý: Tác giả đã dùng kĩ thuật hiện đại để "phục chế" cái cổ xưa: đó là kĩ thuật phân tích, miêu tả cảnh vật và lòng người. Cần nhớ rằng, cách trần thuật của văn học cổ thiên về kể việc, ít phân tích và tả thực. - Lưu ý: Tác giả đã dùng kĩ thuật hiện đại để "phục chế" cái cổ xưa: đó là kĩ thuật phân tích, miêu tả cảnh vật và lòng người. Cần nhớ rằng, cách trần thuật của văn học cổ thiên về kể việc, ít phân tích và tả thực.

Câu 21: Đoạn hội thoại sau đây thiên về ngôn ngữ viết. Hãy viết lại đoạn hội thoại này theo ý tưởng của em để nó trở nên tự nhiên và thiên về ngôn ngữ nói hơn.

Ra khỏi phòng, ông chủ tịch gặp ông bí thư, cười nói:

- Việc kí kết các thoả thuận đó đã mở ra cho huyện ta một hướng đi mới mẻ và hiện đại trong sản xuất công nghiệp và thu hút nhân tài, vật lực. Đó là ý kiến của tôi. Đối với ông, ông đánh giá như thế nào về việc kí kết này? - Việc kí kết các thoả thuận đó đã mở ra cho huyện ta một hướng đi mới mẻ và hiện đại trong sản xuất công nghiệp và thu hút nhân tài, vật lực. Đó là ý kiến của tôi. Đối với ông, ông đánh giá như thế nào về việc kí kết này?

Ông bí thư suy nghĩ một lúc rồi đáp lời:

- Những điều mới mẻ này, tuy nhiên theo tôi nghĩ, vẫn chưa đảm bảo cho sự phát triển dài hạn của địa phương. Tôi cho rằng chúng ta thực sự cần nghiên cứu thêm trong quá trình thực thi. - Những điều mới mẻ này, tuy nhiên theo tôi nghĩ, vẫn chưa đảm bảo cho sự phát triển dài hạn của địa phương. Tôi cho rằng chúng ta thực sự cần nghiên cứu thêm trong quá trình thực thi.

Ông chủ tịch cười:

- Ông đã lo nghĩ nhiều. Tôi và ông sẽ đi xem tình hình thực tế. - Ông đã lo nghĩ nhiều. Tôi và ông sẽ đi xem tình hình thực tế.

Trả lời:

Ví dụ:

          Ra khỏi phòng, ông chủ tịch gặp ông bí thư, cười nói:

          - Việc kí kết thế là xong. Mấy cái thoả thuận này hay đấy ông bí thư ạ. Công nghiệp của chúng ta sẽ đi lên nhanh chóng rồi công nhân, kĩ sư sẽ về đây ngày một đông đấy. Trông ông có vẻ không vui, ông thấy sao? - Việc kí kết thế là xong. Mấy cái thoả thuận này hay đấy ông bí thư ạ. Công nghiệp của chúng ta sẽ đi lên nhanh chóng rồi công nhân, kĩ sư sẽ về đây ngày một đông đấy. Trông ông có vẻ không vui, ông thấy sao?

          Ông bí thư suy nghĩ một lúc rồi đáp lời:

          - Tôi thì lại thấy mấy cái này chỉ nhất thời còn ăn chắc mặc bền thì không khả thi. Lúc làm chắc phải mầy mò thêm ông nhỉ? - Tôi thì lại thấy mấy cái này chỉ nhất thời còn ăn chắc mặc bền thì không khả thi. Lúc làm chắc phải mầy mò thêm ông nhỉ?

          Ông chủ tịch cười:

          - Trời ạ, ông lo xa quá. Tôi và ông sẽ gồng gánh được hết cho mà xem. - Trời ạ, ông lo xa quá. Tôi và ông sẽ gồng gánh được hết cho mà xem.

Câu 22: Hãy phân tích những nét biểu hiện của ngôn ngữ nói trong bài ca dao sau:

Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Trả lời:

Bài ca dao thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, nhưng vẫn có những nét biểu hiện của ngôn ngữ nói thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Cần chú ý:

– Hình thức độc thoại (tự nói với bản thân), nhưng vẫn hàm ý đối thoại với người khác: tự xưng là em, dùng hô ngữ: ai ơi.

– Một số hình thức quen thuộc của ngôn ngữ nói: so sánh (thân em như...), cầu khiến (nếm thử mà xem), hư từ ngăn cách chủ ngữ và vị ngữ (từ thì).

Câu 23: Hãy chỉ ra những điểm hay về mặt nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo.

Trả lời:

Chí Phèo đã ghi nhận thành công trong xây dựng nhân vật, tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật Chí Phèo và bá Kiến. Đây có thể coi là những nhân vật điển hình sắc nét vừa có ý nghĩa tiêu biểu, vừa hết sức sinh động, có cá tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Khi xây dựng những nhân vật này, Nam Cao đã phát huy cao độ sở trường khám phá và miêu tả những trạng thái tâm lí phức tạp của nhân vật (tiêu biểu nhất là tâm lí của Chí Phèo sau đêm gặp thị Nở và khi bị thị Nở khước từ).

Chí Phèo có một lối kết cấu mới mẻ, tưởng như vô cùng phóng túng thoải mái, gặp đâu nói đấy, chẳng theo trình tự thời gian, lúc đầu đi thẳng vào giữa truyện, sau mới ngược thời gian kể về lai lịch nhân vật nhưng thực chất lại rất chặt chẽ, lôgíc.

– Cốt truyện rất hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hoá, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ. (Nhiều sáng tác của Nam Cao hầu như không có cốt truyện, tình tiết không mấy hấp dẫn.)

– Ngôn ngữ trong tác phẩm rất sống động, vừa điêu luyện, nghệ thuật vừa rất gần với lời ăn tiếng nói trong đời sống. Giọng điệu của nhà văn phong phú và biến hoá, có sự đan xen lẫn nhau. Cách trần thuật cũng rất linh hoạt. Nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên, linh hoạt, gây hấp dẫn cho người đọc. Lúc thì trần thuật theo điểm nhìn của tác giả, lúc thì trần thuật theo nhân vật Chí Phèo, khi lại trần thuật theo nhân vật bá Kiến, thị Nở,... Cũng có phần nhờ đó, Nam Cao tạo nên những giọng điệu đan xen lẫn nhau.

è Với những đặc sắc trên, truyện ngắn Chí Phèo đúng là một phát hiện về nội dung, một khám phá về nghệ thuật, xứng đáng là một kiệt tác.

Câu 24: Thử phân tích, so sánh hai truyện ngắn Chí PhèoLão Hạc, liên hệ với một số truyện ngắn khác viết về đời sống nông dân nghèo của Nam Cao để thấy nội dung hiện thực và nhân đạo mà ông đã thể hiện trong sáng tác của mình.

Trả lời:

Một số ý chính có thể tham khảo để thực hiện bài tập này:

a) Điểm chung trong nội dung hiện thực và nhân đạo ở cả hai tác phẩm:

– Đều viết về đời sống nông dân nghèo trước Cách mạng với một cái nhìn hiện thực sâu sắc, có tính phát hiện và trên một tinh thần nhân đạo độc đáo đáng quý (nhất là tình cảnh bần cùng, bế tắc trong đời sống của những người dân quê như lão Hạc, Chí Phèo; qua tình cảnh ấy, Nam Cao khơi sâu hoặc bi kịch của những số phận cùng quẫn, hoặc bi kịch bị tha hoá, bị từ chối quyền làm người).

– Nội dung hiện thực và nhân đạo không tách rời nhau.

– Các nội dung hiện thực và nhân đạo ấy đều được thể hiện một cách sinh động, hiệu quả qua nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật trần thuật,... của nhà văn.

b) Điểm khác biệt trong nội dung hiện thực và nhân đạo giữa hai tác phẩm:

– Ở Lão Hạc, Nam Cao đặt nhân vật vào một tình huống cùng quẫn, buộc phải lựa chọn giữa sinh tồn và nhân cách. Lão Hạc, cuối cùng đã lựa chọn cái chết để giữ gìn nhân cách làm cha. Chiều sâu và ý nghĩa của cái nhìn phê phán hiện thực, nội dung nhân đạo đều toát ra từ tình huống và sự lựa chọn này của nhân vật.

– Ở Chí Phèo, nhà văn lại đặt nhân vật vào một loại tình huống cùng quẫn khác. Sự tiếp nối giữa hai trạng thái tinh thần: say và tỉnh, giữa hai chặng của bị kịch số phận: bị tha hoá và bị từ chối quyền làm người ở hình tượng Chí Phèo là một chuỗi tình huống cho thấy cái hiện thực thảm khốc của đời sống nông dân nghèo trong xã hội làng Vũ Đại ngày ấy. Nhưng cũng đồng thời cho thấy sức sống mãnh liệt của nhân tính. Càng bị đẩy vào cảnh nghèo khổ, bế tắc, cùng cực, càng trượt dài trên con dốc tha hoá, những người lao động vốn lương thiện như Chí Phèo càng khát khao trở về cuộc sống lương thiện, khao khát được sống như một con người. Ở đây, sự tha hoá hay sự trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo đều mang tính quy luật, đều được nhà văn miêu tả, thể hiện như những quy luật.

è Như vậy, nếu lão Hạc chấp nhận sự bần cùng, dùng cái chết để giữ lấy phần sống cho con cùng tư cách làm người của mình, thì Chí Phèo lại bằng sự thức tỉnh nhân tính, bằng cái chết của mình, đã cho thấy cái giá của nhân cách, lương thiện quý và đắt đến mức nào.

Câu 25: Phân tích nhân vật Thị Nở trong văn bản.

Trả lời:

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.

Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”.

Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. -ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.

Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.

Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.

Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.

Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.

Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy”. Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).

Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.

Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.

Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…

Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.

Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.

Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)

Câu 26: Xác định những lỗi trong câu (thuộc văn bản viết) sau đây và chữa cho đúng:

Bánh tét nếp cẩm hảo hạng của tôi một lò nổi tiếng ở đường Nguyễn Văn Cừ Cần Thơ bắt đầu nhận “đơn đặt hàng” tới tấp mà theo lời chủ nhân: “Chắc số lượng tăng gần gấp đôi năm rồi”.

Trả lời:

– Câu văn lộn xộn, ý không mạch lạc, rõ ràng, viết mà như nói. Nhưng nếu nói thì còn có sự hỗ trợ của ngữ cảnh, của giọng điệu, cử chỉ; còn trong văn viết thì không có sự hỗ trợ ấy nên câu văn khó hiểu.

Có thể chữa lại như sau:

Bánh tét nếp cẩm hảo hạng của tôi được một lò ở đường Nguyễn Văn Cừ, thành phố Cần Thơ đặt hàng tới tấp. Hiện nay lò bánh đó đã đặt hàng với “số lượng chắc gần gấp đôi năm rồi”, theo lời ông chủ lò.

Câu 27: Phân tích những ưu thế và giới hạn của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.

Trả lời:

Những ưu thế và giới hạn của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết:

- Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, người nghe có thể phản hồi để người nói điều chỉnh, sửa đổi. Hoặc hai bên có thể trực tiếp giải quyết những thắc mắc để đi đến những thống nhất chung. Tuy nhiên, do giao tiếp bằng ngôn ngữ nói diễn ra tức thời, mau lẹ nên các phương tiện ngôn ngữ thường không được lựa chọn, gọt giũa kĩ càng. Trong khi đó, người nghe cũng phải tiếp nhận lĩnh hội nhanh nên cũng ít có điều kiện suy ngẫm và phân tích. Ngôn ngữ nói trong văn học là một yếu tố quan trọng để khắc hoạ đặc điểm, tính cách của nhân vật và thúc đẩy tiến trình của câu chuyện. - Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, người nghe có thể phản hồi để người nói điều chỉnh, sửa đổi. Hoặc hai bên có thể trực tiếp giải quyết những thắc mắc để đi đến những thống nhất chung. Tuy nhiên, do giao tiếp bằng ngôn ngữ nói diễn ra tức thời, mau lẹ nên các phương tiện ngôn ngữ thường không được lựa chọn, gọt giũa kĩ càng. Trong khi đó, người nghe cũng phải tiếp nhận lĩnh hội nhanh nên cũng ít có điều kiện suy ngẫm và phân tích. Ngôn ngữ nói trong văn học là một yếu tố quan trọng để khắc hoạ đặc điểm, tính cách của nhân vật và thúc đẩy tiến trình của câu chuyện.

- So với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết và người đọc đều phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, quy tắc tổ chức văn bản. Đồng thời giao tiếp theo hình thức này thường nảy sinh những thắc mắc nhưng những thắc mắc ấy lại không thể giải quyết được tức thì. Ngôn ngữ viết trong văn học đặc biệt hữu dụng trong việc mô tả, kể, thuyết minh, bình luận một cách có tổ chức và hướng câu chuyện đi theo mong muốn của tác giả.  - So với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết và người đọc đều phải biết các kí hiệu chữ viết, các quy tắc chính tả, quy tắc tổ chức văn bản. Đồng thời giao tiếp theo hình thức này thường nảy sinh những thắc mắc nhưng những thắc mắc ấy lại không thể giải quyết được tức thì. Ngôn ngữ viết trong văn học đặc biệt hữu dụng trong việc mô tả, kể, thuyết minh, bình luận một cách có tổ chức và hướng câu chuyện đi theo mong muốn của tác giả.

Câu 28: Viết bài văn phân tích nhân vật Huấn Cao.

Trả lời:

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Con người ông rất mực tài hoa, uyên bác, có đóng góp lớn cho sự phát triển nền văn học dân tộc. Đặc biệt ông đã khẳng định được tài năng của mình qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, một tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “Một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. Sự thành công này không thể kể đến những hình tượng nhân vật độc đáo mà nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, một con người không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng; mặc dù chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang bất khuất.

“Chữ người tử tù” được viết ra như một phản đề đối với chế độ thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, một xã hội “Tây Tàu – nhố nhăng” đầy rẫy phức tạp, bất công, đê hèn, độc ác và man trá. Trái với nó, là một vẻ đẹp sáng chói của nhân cách đầy khí phách và một tài hoa siêu việt, một thiên lương cao khiết. Trước đây, khi “Chữ người tử tù” được ra đời, nhiều nhà phê bình cũng như độc giả đều phê phán rằng, nó là tác phẩm tiêu biểu của xu hướng: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Tuy nhiên, khi nhìn nhận một cách sâu sắc, ta có thể thấy được rằng một cái đẹp tìm ẩn, cái đẹp làm cho cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Nhân vật Huấn Cao chính là một cái đẹp tiêu biểu ấy.

Có thể nói rằng, Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Huấn Cao không chỉ như một kẻ tài hoa tài tử thường gặp trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Tuân, trong hình tượng Huấn Cao có sự kết hợp ở mức lí tưởng của một đấng tài hoa nghệ sĩ, một bậc anh hùng nghĩa khí và một con người ngời sáng thiên lương.

Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường. Trong truyện, nhà văn tô đậm cái tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Như ta đã từng biết: chữ Hán là một chữ hội ý, hội hình, nét chữ đẹp, nghĩa chữ sâu. Cho nên viết chữ đẹp là một bộ môn nghệ thuật có từ cổ xưa và rất cao siêu. Người ta gọi đó là nghệ thuật thư pháp. Tài năng hội hoạ thì nhiều, nhưng hoạ sĩ có tài thư pháp thì rất hiếm hoi. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay, quen việc, thạo nghề của một người thợ. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp là một sáng tạo. Mỗi nét bút là sự tập trung cao độ, kết tụ tinh hoa và tinh huyết của người nghệ sĩ. Mỗi nét chữ đều là sự hiện hình của những khát khao thầm kín mà mãnh liệt chất chứa trong thẳm sâu tâm hồn, trong nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được “viết nhanh và rất đẹp”, không chỉ vì “đẹp lắm, vuông lắm” mà quan trọng hơn là “những nét vuông vắn, tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời người”. Hiểu như thế ta mới thấy được tại sao Nguyễn Tuân lại để cho viên quản ngục khao khát “có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Chữ ông Huấn đã trở thành mơ ước suốt cả đời quản ngục. Và để đạt được ước mơ ấy quản ngục đã dám coi thường cả quyền lợi của một viên quản ngục, và cả sự an nguy đến sinh mệnh của mình.

Huấn Cao là một người kiên cường bất khuất. Theo tiếng gọi của tự do ông Huấn đã cầm gươm chống lại triều đình. Mặc dù chí lớn không thành nhưng ông vẫn giữ được tư thế đường hoàng, oai phong, lẫm liệt. Là một tử tù đợi ngày ra pháp trường nhưng Huấn Cao vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần. Ông làm những gì mình muốn và không làm bất cứ việc gì mà mình không thích. Trước mặt ngục quan và đám lính tù bắng nhắng chực ra oai, Huấn Cao lạnh lùng cùng sáu người tử tù “khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” để đuổi rệp, cũng là để khẳng định cái oai phong của mình. Quản ngục vào buồng giam “khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Ông trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đúng là Huấn Cao đã “cố ý làm ra khinh bạc đến điều”. Thật ngang tàng và kiêu dũng. Rồi nữa, trong cảnh ngộ “một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”, thế mà “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Đặc biệt, khi thấu hiểu quản ngục “là một tấm lòng trong thiên hạ” Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ trong tư thế “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Không có một ý chí gang thép thì không có được cái phong thái ung dung nghệ sĩ trong cảnh cho chữ này. Thế đó, xiềng xích, cường quyền và bạo lực không thể là cho Huấn Cao nao núng tinh thần. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng Huấn Cao là hiện thân sinh động của một bậc đại trượng phu với phương châm sống: “Bần cư bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất” (nghèo khó không làm đổi thay chí hướng, giàu có không thể làm cho hư hỏng, cường bạo không thể khuất phục).

Huấn Cao còn là một con người có thiên lương trong sáng, cao khiết. Cả một đời, Huấn Cao luôn có ý thức giữ gìn bản tính tốt của con người do trời phú cho. Tiền tài, danh vọng và cường quyền không thể làm cho lương tâm của ông thay đổi. Ông Huấn ngẩng đầu kiêu hãnh trước điều này “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Tôn thờ chữ “tâm”, sống một đời thanh sạch, cho nên ông Huấn thực sự cảm kích trước những người “sống giữa một đống cặn bã” mà còn giữ được “thiên lương”. Khi biết quản ngục là một người “có sở thích cao quý” và có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” ông ân hận chân thành “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Và người anh hùng “chọc trời khuấy nước”, khí phách ngang tàng, giờ đây chí lớn không thành, ngày đêm bị gông xiềng trong ngục tối để chờ ngày bị đem ra pháp trường chặt đầu nhưng tư thế vẫn ung dung, hiên ngang bất khuất đó đã để cái đêm cuối cùng ở tỉnh Sơn quê hương, dành “những dòng chữ cuối cùng” của đời mình cho viên quản ngục nọ. Đó không phải là sự dâng nộp báu vật của một tên tử tù cho viên quản ngục đang coi giữ mình, mà là sự cảm kích, trân trọng của người nghệ sĩ đối với kẻ liên tài, người tri kỉ; là sự đáp lại của một tấm lòng trước một tấm lòng… Danh sĩ Cao Bá Quát – Nguyên mẫu lịch sử để Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Huấn Cao – có câu thơ “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – Một đời chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai. Ông Huấn không cúi đầu bái lạy quản ngục vì quản ngục chưa phải là hiện thân của nhân cách cao khiết tuyệt vời; nhưng ông vẫn nâng niu trân trong chút “thiên lương”, “một tấm lòng” ở con người phải sống trong cái ác, cái xấu nhưng vẫn hướng về cái thiện, cái đẹp đó. Cảm kích trước tấm lòng của quản ngục, ông Huấn không chỉ bằng lòng cho chữ mà còn “đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo”: “…Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lãnh vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Có thể coi đây là lời cuối cùng của Huấn Cao trước khi ông đi vào cõi vĩnh hằng. Nó giống như trong đời thường trước lúc lâm chung người ông căn dặn các cháu, người cha dặn dò các con: sống ở đời phải biết theo cái lẽ “đói cho sạch, rách cho thơm”. Như vậy là, ở đâu và lúc nào, đối với mình cũng như đối với người, Huấn Cao luôn luôn tâm niệm về cái điều cốt lõi trong đạo làm người: hãy biết “giữ thiên lương cho lãnh vững”.

Nhân vật Huấn Cao thể hiện rất rõ quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân về cái đẹp. Nhìn chung, Huấn Cao là một nhân vật rất Nguyễn Tuân mang đầy đủ những phẩm chất mà Nguyễn Tuân cho rằng cần phải có ở một con người chân chính. Khi ca ngợi nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật yêu quý của mình nhà văn như muốn nói con người lí tưởng trước hết phải là con người có tài, có tầm cao văn hoá và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài đó của mình. Thật tự nhiên, cái tài phải đi song song với bản lĩnh, khí phách, với ý thức giữ gìn bản ngã, thậm chí khi cần kẻ có tài phải biết chống lại môi trường phi nhân tính vốn thù địch với tài năng. Nhưng con người chỉ có tài, có khí phách vẫn là chưa đủ mà phải có tâm nữa. Tuy Nguyễn Tuân không khẳng định như thiên tài Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, nhưng qua sự vận động của hình tượng Huấn Cao ta vẫn thấy nhà văn rất coi trọng chữ tâm, coi trọng “thiên lương”. Với Nguyễn Tuân, cái tâm vẫn là gốc rễ của nhân cách, là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách.

Câu 29: Việc Phăng-tin đọc lại bức thư một lần nữa nói lên điều gì?

Trả lời:

Việc Phăng-tin đọc lại bức thư một lần nữa cho thấy sự đau khổ, tuyệt vọng của cô khi nghĩ về đứa con gái bé bỏng của mình.

Câu 30: Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Chí Phèo.

Trả lời:

 - Giá trị nội dung:

  • Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
  • Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính
  • Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc

 - Giá trị nghệ thuật:

  • Tác phẩm thể hiện khả năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật miêu tả sinh động, sắc sảo mà vẫn liên kết chặt chẽ; ngôn ngữ biểu cảm độc đáo.
  • Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo: Nam Cao sở trường về miêu tả tâm lí nhân vật; có biệt tài đi sâu vào nội tâm thể hiện các diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
  • Việc đảo lộn trình tự thời gian đã tạo được sự linh hoạt trong cách kể truyện, quan trọng là tạo ra sức lôi cuốn, thu hút sự tò mò và hứng thú theo dõi liên tục đối với người đọc. Hình ảnh “chiếc lò gạch cũ bỏ hoang” xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm chỉ là kết cấu vòng để cho người đọc hiểu sâu hơn tầng nghĩa mà nhà văn muốn truyền tải: Chừng nào còn tồn tại một xã hội kiểu làng Vũ Đại, còn kiểu người như Bá Kiến thì chừng đó sẽ còn kiểu người như Chí Phèo.
  • Ngôn ngữ truyện: tác giả đan xen lời nhân vật vào lời người kể chuyện. Điều này giúp cho nhà văn dễ luồn sâu vào đời sống nội tâm đa dạng và phong phú của nhân vật.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay