Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều bài 3: Chữ người tử tù

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 3: Chữ người tử tù , Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Cánh diều.

BÀI 3: TRUYỆN

VĂN BẢN 2: CHỮ NGƯỜI TỬ TỪ
 (15 câu)

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản Chữ người tử tù (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

- Tác giả: Nguyễn Tuân

- Thể loại: Truyện ngắn

- Truyện ngắn ngày lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn, sau đso được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù.

- Trong truyện, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.

- Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân.

Trả lời:

- Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Quê ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Từ nhỏ, ông theo gia đình sống ở nhiều tỉnh miền Trung. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay) ở Nam Định, sau đó về Hà Nội viết văn và làm báo. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Từ 1948 đến 1958, ông là Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.

- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tuỳ bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Năm 1996, Nguyễn Tuân được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Câu 3: Hãy trình bày về đặc điểm và tác dụng của sự thay đổi điểm nhìn trong truyện.

Trả lời:

- Trong quá trình trần thuật, điểm nhìn có thể được chuyển từ người kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, giúp đi sâu vào nội tâm nhân vật, mở rộng khả năng bao quát, nhận xét, đánh giá của người trần thuật. Song, xét đến cùng, mọi cách nhìn, xuất phát từ mọi điểm nhìn đều trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện quan niệm, tư tưởng, thái độ của nhà văn. Điều đó giúp cho nhà văn có khả năng nhập vào các vai, chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên; đồng thời, tạo cho tác phẩm nhiều giọng điệu đan xen lẫn nhau, phong phú và biến hoá, làm nên sức hấp dẫn đối với người đọc.

Câu 4: Hãy nêu giá trị văn hoá của văn bản.

Trả lời:

- Đối với truyện Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân thông qua con đường, sự việc mà ngợi ca những giá trị văn hoá về cái đẹp (tâm hồn, nhân cách, thiên lương,…), về cái tài và lối sống trong sạch, uy vũ không thể khuất phục,…

Câu 5: Có thể chia văn bản truyện Chữ người tử tù làm mấy phần? Tóm tắt nội dung mỗi phần. Nêu quan hệ giữa các phần.

Trả lời:

- Căn cứ vào diễn biến của mạch truyện có thể chia tác phẩm làm ba phần với nội dung như sau:

+ Quản ngục được tin sẽ tiếp nhận tử tù Huấn Cao. Tính cách quản ngục.

+ Huấn Cao nhập ngục. Sự biệt đãi của quản ngục đối với tử tù. Thái độ hiên ngang bất khuất của Huấn Cao.

+ Huấn Cao chấp nhận cho chữ viên quản ngục – "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có" trong nhà tù.

- Quan hệ giữa các phần: Qua ba phần, tính cách Huấn Cao và viên quản ngục hiện dần lên ngày càng rõ nét. Từ phần một đến phần hai: Huấn Cao ngày càng thể hiện tinh thần hiên ngang, bất khuất; quản ngục thì ngày càng thể hiện thiên lương trong sạch, thực sự mến trọng tài hoa, khí phách của Huấn Cao. Phần ba: Huấn Cao và quản ngục trở thành tri âm tri kỉ. Huấn Cao không những chỉ hiên ngang, bất khuất trước cường quyền phi nghĩa mà cũng "mềm lòng" trước những người biết liên tài, trọng nghĩa. Còn quản ngục thì càng bộc lộ rõ niềm ngưỡng mộ tài hoa, khí phách của Huấn Cao.

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tác dụng của tình huống này đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện?

Trả lời:

– Tình huống truyện: Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời. Nhưng cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Nguyễn Tuân đã đặt những nhân vật của mình vào chốn ngục tù tối tăm nhơ bẩn, tạo nên cuộc gặp gỡ kì lạ của họ. Nguyễn Tuân đã tạo ra một tình huống độc đáo: Mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri âm, tri kỉ. Tác giả đã đặt những nhân vật này trong một tình thế đối địch: tử tù và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, làm sáng tỏ "tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục, đồng thời cũng thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm.

Câu 2: Phân tích vẻ đẹp độc đáo của hình tượng Huấn Cao. Qua nhân vật Huấn Cao, em có nhận xét gì về quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp?

Trả lời:

– Trong Chữ người tử tù, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hoá, được thể hiện một cách khác thường trong một hoàn cảnh tưởng chừng như không thể nào xảy ra được. Vẻ đẹp của Huấn Cao hiện lên một cách rực rỡ, sáng chói nhờ được tô vẽ bằng hàng loạt sự tương phản gay gắt.

- Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được thể hiện ở những phương diện sau:

+ Tài hoa, nghệ sĩ (Huấn Cao là người có tài viết chữ đẹp).

+ Khí phách hiên ngang (Huấn Cao là một trang anh hùng, dũng liệt).

+ Nhân cách trong sáng, cao cả (Huấn Cao là người có "thiên lương")

– Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã bộc lộ quan niệm về cái đẹp. Huấn Cao không chỉ là người có tài mà còn có tâm, có "thiên lương" cao đẹp. Huấn Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, không sợ chết, coi khinh tiền bạc và đồng tiền phi nghĩa mà còn có một tấm lòng yêu quý cái thiện, cảm động trước "thiên lương" của viên quản ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao quý của ông ta); biết sợ cái việc thiếu chút nữa mình "phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Đó là hai mặt thống nhất trong một nhân cách lớn. Như vậy, trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm, cái đẹpcái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan điểm nghệ thuật tiến bộ.

Câu 3: Nhân vật quản ngục có phẩm chất gì khiến Huấn Cao cảm kích coi là “một tấm lòng trong thiên hạ”, và tác giả coi đó là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”?

Trả lời:

- Không chỉ Huấn Cao, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, viên quản ngục cũng là một nhân vật độc đáo. Tuy không phải là người làm nghệ thuật, nhưng ngục quan là người có một tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài: say mê và quý trọng cái tài, cái đẹp. Viên quản ngục say mê cái tài, cái đẹp và nhân cách cao thượng của Huấn Cao nên chân thành, cung kính biệt đãi ông. Mặc dù Huấn Cao tỏ thái độ cao ngạo, khinh mạn đối với viên quản ngục, nhưng hằng ngày quản ngục vẫn sai người dâng rượu và thức nhắm, đồng thời nói năng với người tử tù nhất mực cung kính. Trước Huấn Cao, quản ngục tự thấy mình chỉ là một "kẻ tiểu lại giữ từ" thấp hèn. Chính vì say mê cái đẹp, cảm phục tài năng và nhân cách của Huấn Cao nên ngục quan đã bất chấp luật pháp, làm đảo lộn trật tự trong nhà tù, biển một kẻ tử tù thành một thần tượng để tôn thờ. Ở đây, vẻ đẹp của ngục quan được thể hiện ở thái độ sùng kính Huấn Cao – hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái "thiên lương" cao cả. Và việc biệt đãi tử tù của ông cần được xem như một hành vi dũng cảm. Vẻ đẹp của quản ngục còn được thể hiện trong tư thế khúm núm, thái độ trân trọng đối với Huấn Cao qua hành vi vái người tù một vái, chắp tay nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" ở cuối tác phẩm.

- Như vậy, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, ngục quan có những phẩm chất khiến ông Huấn Cao cảm kích coi là "một tấm lòng trong thiên hạ", và tác giả coi đó là "cái thuần khiết giữa một đống cặn bã", "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".

Câu 4: Phân tích để làm rõ vị trí quan trọng của đoạn văn tả Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà tù. Vì sao tác giả gọi đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"? Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu được sử dụng trong đoạn văn này là gì?

Trả lời:

- Đoạn văn tả Huấn Cao cho chữ viên quản ngục có vị trí rất quan trọng trong thiên truyện: chủ đề của truyện được sáng tỏ cùng với sự thể hiện đầy đủ tính cách của Huấn Cao và viên quản ngục.

- Tác giả gọi đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có", vì chưa bao giờ trong nhà tù lại có một sự đảo ngược bất thường như thế: đảo ngược trật tự xã hội, đảo ngược vị thế nhân vật, đảo ngược môi trường của nghệ thuật và của thiên lương. Trong nhà tù mà giữ vị thế làm chủ lại là người tù chứ không phải quản ngục, là ánh sáng chứ không phải bóng tối, là cái đẹp chứ không phải cái xấu xa, nhơ bẩn, là thiên lương chứ không phải tội ác.

- Trong đoạn văn này, thủ pháp đối lập được sử dụng rất đắc địa, gây ấn tượng rất mạnh.

Câu 5: Hãy nhận xét về quan điểm thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện trong truyện Chữ người tử tù.

Trả lời:

- Quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân thể hiện ở vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao: tài hoa thống nhất với khí phách, với thiên lương.

- Chữ người tử tù là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tiếp cận thế giới thiên về phương diện văn hoá, nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ; tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Vì thế các nhà nghiên cứu phê bình văn học thường gọi ông là "người đi tìm cái đẹp".

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Phân tích đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nhà lao. Vì sao tác giả lại coi đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Trả lời:

– Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được bộc lộ một cách sáng chói, rực rỡ nhất trong cái đêm ông cho chữ viên quản ngục. Cảm hứng mãnh liệt trước một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo những ngôn từ vừa sắc sảo góc cạnh, vừa trang trọng cổ kính, sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm. Những nét vẽ của ông như khắc, như chạm, giàu giá trị tạo hình. Chi tiết nào cũng sinh động, cũng gợi cảm, đầy ám ảnh nghệ thuật. Thủ pháp tương phản được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao.

– Cảnh tượng ông Huấn Cao cho chữ viên quản ngục đúng là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", bởi vì:

+ Việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám của nhà tù (tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián). Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hội hám, nhơ bẩn; thiên lương cao cả lại toả sáng ở chính cái nơi mà bóng tối và cái ác đang ngự trị.

+ Người nghệ sĩ tài hoa say mê tộ từng nét chữ không phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào kinh chịu án tử hình. Hình ảnh uy nghi của Huấn Cao đối lập với hình ảnh xo ro của thầy thơ lại "run run bưng chậu mực" và hình ảnh viên quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ".

+ Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn: Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân.

è Như vậy, giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà là người tử tù làm chủ. Qua cảnh tượng này, chủ đề của tác phẩm được thể hiện sâu sắc. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với cái ác,... Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân cách cao cả của con người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng.

Câu 2: Tình huống truyện của tác phẩm Chữ người tử tù là gì? Tính chất éo le của tình huống truyện thể hiện ở đâu? Tình huống này có tác dụng gì đối với việc thể hiện tính cách nhân vật và kịch tính của truyện?

Trả lời:

- Tình huống truyện ở đây là mối quan hệ đặc biệt éo le giữa những tâm hồn tri kỉ (Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại). Tác giả đặt họ trong tình thế đối địch: tử tù và quản ngục. Nhưng chính tình huống này đã làm nổi rõ tính cách của Huấn Cao, viên quản ngục và làm bật sáng chủ đề của truyện.

- Huấn Cao tỏ thái độ hiên ngang, bất khuất khi tưởng viên quản ngục chỉ là viên quản ngục (tàn bạo, độc ác, ỷ thế, cậy quyền). Nhưng khi biết quản ngục chỉ là cái áo khoác phủ ngoài một tâm hồn đẹp, thì ông liền đổi hẳn thái độ. Cũng nhờ tình huống ấy mà viên quản ngục mới càng tỏ rõ là một tâm hồn biết trọng cái tài, cái đẹp, cái "thiên lương", bất chấp luật pháp và trách nhiệm quản ngục, hết lòng biệt đãi Huấn Cao dù bị ông ta khinh bỉ.

Câu 3: Không khí cổ xưa "vang bóng một thời" trong truyện Chữ người tử tù được tác giả tạo dựng bằng những yếu tố nào?

Trả lời:

- Một trong những thành công về nghệ thuật của truyện là đã tạo dựng được không khí cổ kính của một thời xưa còn "vang bóng". Mọi cảnh vật, đồ vật, hành vi, lời lẽ của con người đều được chọn lựa và diễn tả bằng ngôn ngữ của thời xưa, có tác dụng đẩy thời gian lùi về quá khứ và tạo một không gian tĩnh lặng, trong đó sinh hoạt của con người diễn ra với nhịp điệu từ tốn, chậm rãi.

- Lưu ý: Tác giả đã dùng kĩ thuật hiện đại để "phục chế" cái cổ xưa: đó là kĩ thuật phân tích, miêu tả cảnh vật và lòng người. Cần nhớ rằng, cách trần thuật của văn học cổ thiên về kể việc, ít phân tích và tả thực.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Viết bài văn phân tích nhân vật Huấn Cao.

Trả lời:

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Con người ông rất mực tài hoa, uyên bác, có đóng góp lớn cho sự phát triển nền văn học dân tộc. Đặc biệt ông đã khẳng định được tài năng của mình qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, một tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “Một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. Sự thành công này không thể kể đến những hình tượng nhân vật độc đáo mà nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, một con người không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng; mặc dù chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang bất khuất.

“Chữ người tử tù” được viết ra như một phản đề đối với chế độ thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, một xã hội “Tây Tàu – nhố nhăng” đầy rẫy phức tạp, bất công, đê hèn, độc ác và man trá. Trái với nó, là một vẻ đẹp sáng chói của nhân cách đầy khí phách và một tài hoa siêu việt, một thiên lương cao khiết. Trước đây, khi “Chữ người tử tù” được ra đời, nhiều nhà phê bình cũng như độc giả đều phê phán rằng, nó là tác phẩm tiêu biểu của xu hướng: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Tuy nhiên, khi nhìn nhận một cách sâu sắc, ta có thể thấy được rằng một cái đẹp tìm ẩn, cái đẹp làm cho cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Nhân vật Huấn Cao chính là một cái đẹp tiêu biểu ấy.

Có thể nói rằng, Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Huấn Cao không chỉ như một kẻ tài hoa tài tử thường gặp trong thế giới nghệ thuật Nguyễn Tuân, trong hình tượng Huấn Cao có sự kết hợp ở mức lí tưởng của một đấng tài hoa nghệ sĩ, một bậc anh hùng nghĩa khí và một con người ngời sáng thiên lương.

Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường. Trong truyện, nhà văn tô đậm cái tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Như ta đã từng biết: chữ Hán là một chữ hội ý, hội hình, nét chữ đẹp, nghĩa chữ sâu. Cho nên viết chữ đẹp là một bộ môn nghệ thuật có từ cổ xưa và rất cao siêu. Người ta gọi đó là nghệ thuật thư pháp. Tài năng hội hoạ thì nhiều, nhưng hoạ sĩ có tài thư pháp thì rất hiếm hoi. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay, quen việc, thạo nghề của một người thợ. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp là một sáng tạo. Mỗi nét bút là sự tập trung cao độ, kết tụ tinh hoa và tinh huyết của người nghệ sĩ. Mỗi nét chữ đều là sự hiện hình của những khát khao thầm kín mà mãnh liệt chất chứa trong thẳm sâu tâm hồn, trong nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được “viết nhanh và rất đẹp”, không chỉ vì “đẹp lắm, vuông lắm” mà quan trọng hơn là “những nét vuông vắn, tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời người”. Hiểu như thế ta mới thấy được tại sao Nguyễn Tuân lại để cho viên quản ngục khao khát “có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Chữ ông Huấn đã trở thành mơ ước suốt cả đời quản ngục. Và để đạt được ước mơ ấy quản ngục đã dám coi thường cả quyền lợi của một viên quản ngục, và cả sự an nguy đến sinh mệnh của mình.

Huấn Cao là một người kiên cường bất khuất. Theo tiếng gọi của tự do ông Huấn đã cầm gươm chống lại triều đình. Mặc dù chí lớn không thành nhưng ông vẫn giữ được tư thế đường hoàng, oai phong, lẫm liệt. Là một tử tù đợi ngày ra pháp trường nhưng Huấn Cao vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần. Ông làm những gì mình muốn và không làm bất cứ việc gì mà mình không thích. Trước mặt ngục quan và đám lính tù bắng nhắng chực ra oai, Huấn Cao lạnh lùng cùng sáu người tử tù “khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” để đuổi rệp, cũng là để khẳng định cái oai phong của mình. Quản ngục vào buồng giam “khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Ông trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đúng là Huấn Cao đã “cố ý làm ra khinh bạc đến điều”. Thật ngang tàng và kiêu dũng. Rồi nữa, trong cảnh ngộ “một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”, thế mà “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Đặc biệt, khi thấu hiểu quản ngục “là một tấm lòng trong thiên hạ” Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ trong tư thế “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Không có một ý chí gang thép thì không có được cái phong thái ung dung nghệ sĩ trong cảnh cho chữ này. Thế đó, xiềng xích, cường quyền và bạo lực không thể là cho Huấn Cao nao núng tinh thần. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng Huấn Cao là hiện thân sinh động của một bậc đại trượng phu với phương châm sống: “Bần cư bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất” (nghèo khó không làm đổi thay chí hướng, giàu có không thể làm cho hư hỏng, cường bạo không thể khuất phục).

Huấn Cao còn là một con người có thiên lương trong sáng, cao khiết. Cả một đời, Huấn Cao luôn có ý thức giữ gìn bản tính tốt của con người do trời phú cho. Tiền tài, danh vọng và cường quyền không thể làm cho lương tâm của ông thay đổi. Ông Huấn ngẩng đầu kiêu hãnh trước điều này “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Tôn thờ chữ “tâm”, sống một đời thanh sạch, cho nên ông Huấn thực sự cảm kích trước những người “sống giữa một đống cặn bã” mà còn giữ được “thiên lương”. Khi biết quản ngục là một người “có sở thích cao quý” và có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” ông ân hận chân thành “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Và người anh hùng “chọc trời khuấy nước”, khí phách ngang tàng, giờ đây chí lớn không thành, ngày đêm bị gông xiềng trong ngục tối để chờ ngày bị đem ra pháp trường chặt đầu nhưng tư thế vẫn ung dung, hiên ngang bất khuất đó đã để cái đêm cuối cùng ở tỉnh Sơn quê hương, dành “những dòng chữ cuối cùng” của đời mình cho viên quản ngục nọ. Đó không phải là sự dâng nộp báu vật của một tên tử tù cho viên quản ngục đang coi giữ mình, mà là sự cảm kích, trân trọng của người nghệ sĩ đối với kẻ liên tài, người tri kỉ; là sự đáp lại của một tấm lòng trước một tấm lòng… Danh sĩ Cao Bá Quát – Nguyên mẫu lịch sử để Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Huấn Cao – có câu thơ “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – Một đời chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai. Ông Huấn không cúi đầu bái lạy quản ngục vì quản ngục chưa phải là hiện thân của nhân cách cao khiết tuyệt vời; nhưng ông vẫn nâng niu trân trong chút “thiên lương”, “một tấm lòng” ở con người phải sống trong cái ác, cái xấu nhưng vẫn hướng về cái thiện, cái đẹp đó. Cảm kích trước tấm lòng của quản ngục, ông Huấn không chỉ bằng lòng cho chữ mà còn “đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo”: “…Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lãnh vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Có thể coi đây là lời cuối cùng của Huấn Cao trước khi ông đi vào cõi vĩnh hằng. Nó giống như trong đời thường trước lúc lâm chung người ông căn dặn các cháu, người cha dặn dò các con: sống ở đời phải biết theo cái lẽ “đói cho sạch, rách cho thơm”. Như vậy là, ở đâu và lúc nào, đối với mình cũng như đối với người, Huấn Cao luôn luôn tâm niệm về cái điều cốt lõi trong đạo làm người: hãy biết “giữ thiên lương cho lãnh vững”.

Nhân vật Huấn Cao thể hiện rất rõ quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân về cái đẹp. Nhìn chung, Huấn Cao là một nhân vật rất Nguyễn Tuân mang đầy đủ những phẩm chất mà Nguyễn Tuân cho rằng cần phải có ở một con người chân chính. Khi ca ngợi nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật yêu quý của mình nhà văn như muốn nói con người lí tưởng trước hết phải là con người có tài, có tầm cao văn hoá và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài đó của mình. Thật tự nhiên, cái tài phải đi song song với bản lĩnh, khí phách, với ý thức giữ gìn bản ngã, thậm chí khi cần kẻ có tài phải biết chống lại môi trường phi nhân tính vốn thù địch với tài năng. Nhưng con người chỉ có tài, có khí phách vẫn là chưa đủ mà phải có tâm nữa. Tuy Nguyễn Tuân không khẳng định như thiên tài Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, nhưng qua sự vận động của hình tượng Huấn Cao ta vẫn thấy nhà văn rất coi trọng chữ tâm, coi trọng “thiên lương”. Với Nguyễn Tuân, cái tâm vẫn là gốc rễ của nhân cách, là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách.

Câu 2: Viết bài văn phân tích văn bản.

Trả lời:

          Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thình một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kính chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm núm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sung kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

 

=> Giáo án Ngữ văn 11 cánh diều Bài 3 Đọc 2: Chữ người tử tù

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay