Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều bài 2: Trao duyên

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 2: Trao duyên, Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Cánh diều.

Xem: => Giáo án ngữ văn 11 cánh diều

BÀI 2: THƠ VĂN NGUYỄN DU

VĂN BẢN 2: TRAO DUYÊN
(15 câu)

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản Trao duyên (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

– Tác giả: Nguyễn Du

– Thể loại: truyện thơ Nôm

– Văn bản trích từ câu 723 đến 756 trong Truyện Kiều.

– Về nội dung: Đoạn trích bộc lộ phẩm chất cao quý của Thuý Kiều trong tình yêu. Trước tình yêu tan vỡ, nàng có thể làm tất cả những gì có thể làm được cho hạnh phúc của người mình yêu, đồng thời nói lên nỗi đau đớn cực độ một khi đành phải tự nguyện từ bỏ tình yêu.

– Về nghệ thuật: Nguyễn Du đã thể hiện một năng lực thấu hiểu con người qua việc miêu tả tâm lí nhân vật, sử dụng thành công lời đối thoại và độc thoại của nhân vật.

Câu 2: Việc Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu có ý nghĩa gì?

Trả lời:

– Trong khi nói với Thuý Vân, Kiều cảm tưởng như sống lại với các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng. Nàng như sống trong hồi ức qua những kỉ vật “Chiếc vành với bức tờ mây” và nhất là tưởng nhớ lại sự kiện đem thề nguyền thiêng liêng: cảnh Kim Trọng cho thêm hương vào lò hương ("Đài sen nối sáp lò đào thêm hương”) được tái hiện qua “mảnh hương nguyền” (“đốt lò hương ấy”), cảnh Kiều đàn cho Kim Trọng nghe (“so lần dây vũ dây văn”) được nói tới qua “phím đàn” (“so tơ phím này”). Các từ ngữ này cho thấy trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu có sức sống mãnh liệt. Những hình ảnh “đốt lò hương” và “so tơ” đều đã được nói đến trong đêm thề nguyền. Các kỉ niệm khắc sâu như thế cho thấy tình yêu ở nàng sâu sắc và mãnh liệt.

Câu 3: Trong văn bản, Kiều đối thoại với những ai?

Trả lời:

– Về hình thức, ta thấy toàn bộ trích đoạn là lời thoại của Kiều nói với Thuý Vân. Tuy nhiên, có lúc, Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với Kim Trọng chứ không còn nói với Thuý Vân nữa, có lúc nàng tự nói với chính mình (những từ ngữ và hình ảnh gợi lại kỉ niệm tình yêu hoặc: “Bây giờ trâm gãy gương tan – Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!” cũng là tự nói với mình).

Câu 4: Tìm hiểu vị trí của đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều.

Trả lời:

– Trước sự kiện “trao duyên” cho Thuý Vân, Thuý Kiều đã bán mình lấy tiền hối lộ cho bọn sai nha để bố và em trai Vương Quan khỏi bị giam cầm, đánh đập. Có nghĩa là lời thề nguyền với Kim Trọng không thể thực hiện được nữa, Nguyễn Du đã có một sáng tạo nhỏ mà quan trọng so với Kim Vân Kiều truyện: ở nguyên tác, Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân trước khi bán mình, tức là “trao duyên” trước khi tình yêu với Kim Trọng bị tan vỡ. Lôgic của cảm xúc như vậy không có sức thuyết phục bằng việc đặt sự kiện trao duyên sau khi đã bán mình.

Câu 5: Đoạn trích Trao duyên có thể chia làm mấy đoạn nhỏ? Nêu ý chính của mỗi đoạn.

Trả lời:

Đoạn trích gồm 34 câu, có thể chia làm hai đoạn nhỏ:

– Đoạn 1 (từ câu 723 đến câu 736): Thuý Kiều nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng.

– Đoạn 2 (từ câu 737 đến câu 756): Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên. Kiều thấy cuộc sống hạnh phúc của mình đến đây là hết; nỗi đau đớn vì tình yêu tan vỡ, càng đau đớn vì đã phụ tình Kim Trọng.

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Hãy giải nghĩa các câu thơ trong văn bản.

Trả lời:

Giải nghĩa một số từ ngữ, câu thơ khó hiểu (chưa có trong chú giải SGK):

– Cậy: nhờ; chịu: nhận

– Giữa đường đứt gánh tương tư: Gánh quang gánh trên vai, chưa đi đến nơi, giữa đường đứt gánh, thì nặng nề vất vả vô cùng. Vì không gánh được, phải tay xách nách mang, hoặc đội. Nên để tả cái cảnh giữa chừng tuổi trẻ goá chồng, người ta thường nói “giữa đường đứt gánh”. Đây Kiều không goá chồng. Nàng không giữa đường đứt gánh, mà chỉ “giữa đường đứt gánh tương tư”, tức là lâm vào tình trạng không còn có thể tiếp tục nghĩ nhớ đến Kim Trọng được nữa: nàng bắt buộc phải đi theo người khác.

– Chắp mối tơ thừa: chắp cái dây tơ tình bị đứt, ý nói lấy chồng. “Mặc em”: tuỳ em

– “Hiếu”: hiếu thảo; “tình”: tình yêu với Kim Trọng; “khôn lẽ”: khó có thể

– “Thay lời nước non”: giữ lời thề thay mình

– “Thịt nát xương mòn”: chết đã lâu

– “Ngậm cười”: chết được hả lòng hả dạ

– “Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên”: Kiều có ý dặn Vân nhớ mình.

– “Đền nghì”: đền đáp ơn nghĩa

– “Trúc mai”: người giữ trọn tiết, giữ trọn lời thề; ngoài ra còn hàm nghĩa là người quân tử.

– “Thác oan”: chết oan

– “Nước chảy hoa trôi”: ý nói sự tan tác, sự trôi nổi lênh đênh, cuộc đời lang bạc.

 

Câu 2: Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều đã nghĩ đến cái chết. Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì?

Trả lời:

– Trong khi nói với Thuý Vân, Kiều đã liên tưởng đến cái chết. Có nhiều từ ngữ phản ánh ý nghĩ này: mai sau “trông ra ngọn cỏ lá cây, – thấy hiu hiu gió thì hay chị về” (Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió “ào ào đổ lộc rung cây” khi Kiều thắp hương và làm thơ bên mộ Đạm Tiên), “hồn”, “dạ đài”, “người thác oan”. Kiều cảm thấy cuộc đời trống trải vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, nàng nghĩ đến cái chết và cảm thấy đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt. Tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu. Mô–típ chiêu hồn, gọi hồn trong Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Phản “Chiêu hồn” của Nguyễn Du cho thấy nhà thơ quan tâm nhiều đến sự oan ức trong cái chết của những người bất hạnh – một phương diện độc đáo của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du.

Câu 3: Nhận xét về mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều qua đoạn trích.

Trả lời:

– Về mặt tình cảm, Kiều tha thiết với tình yêu Kim Trọng, nhưng chữ hiếu buộc nàng lựa chọn sự hi sinh tình yêu. Do đó, về mặt lí trí, Kiều nhận thức được sự tất yếu phải nhờ em gái trả nghĩa. Đây là chuyện có thể khó hiểu đối với người hiện đại hoặc người phương Tây, nhưng lại là dễ hiểu đối với người phương Đông xưa (vì thế mà Thuý Vân nhận lời không chút do dự). Tuy nhờ Thuý Vân trả nghĩa nhưng tình yêu sâu sắc, mãnh liệt của Kiều lại khiến nàng đau đớn, than thân trách phận, xót xa chứ không hề thanh thản. Thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời. Trong tâm hồn Kiều, thật khó nói cái gì mạnh hơn, áp đảo hơn: lí trí hay tình cảm, thân phận hay nhân cách. Chúng hoà quyện chặt chẽ. Kiều không muốn nêu gương về đạo nghĩa, nàng ứng xử như văn hoá của thời trung đại đòi hỏi song không thôi nghĩ về thân phận, về tình yêu riêng tư. Do đó, nàng gần với con người thực, con người tự nhiên nhiều chiều chứ không phải là một tấm gương đạo lí đơn giản, một chiều. Nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du vì thế mà sống động và chân thực hơn nhân vật Thuý Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân vốn thiên về biểu trưng cho đạo đức.

Câu 4: Em cảm nhận được gì về nỗi đau của Kiều qua các từ, cụm từ: thịt nát xương mòn, chín suối, chị về, hồn, thác oan? Hãy giải thích vì sao cái chết ám ảnh Kiều.

Trả lời:

Bài tập này yêu cầu:

– Cảm nhận về nỗi đau của Kiều qua các từ, cụm từ đã cho.

– Giải thích vì sao cái chết ám ảnh Kiều.

Các từ ngữ yêu cầu được giải nghĩa đều nói đến cái chết ở các góc độ khác nhau. Không bảo vệ được tình yêu với Kim Trọng, Kiều thấy cuộc sống trở nên vô nghĩa. Nàng đau đớn tưởng tượng đến cái chết (cái chết giả tưởng). Sự tập trung dày đặc các từ ngữ liên quan đến cái chết cũng góp phần cho thấy nàng thiết tha với tình yêu như thế nào.

 

Câu 5: Hãy nhận xét đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản.

Trả lời:

Truyện Kiều là một truyện thơ bác học nên ngôn từ của văn bản trau chuốt, có tính ước lệ, có chất lượng nghệ thuật cao. Tác giả cũng sử dụng nhiều điển tích, điển cố, biện pháp tu từ. Ngôn ngữ trong văn bản giúp cho sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình trở nên uyển chuyển.

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Trong đoạn trích, Kiều nói chuyện với Thuý Vân rồi chuyển sang nhắn gửi cho Kim Trọng. Sự chuyển đổi đối tượng trò chuyện ấy nói lên điều gì trong tình cảm của Kiều?

Trả lời:

– Khi Kiều nói với Thuý Vân là khi nàng tính việc nhờ Thuý Vân thay mình “trả nghĩa” cho chàng Kim, một việc thiên về lí trí. Nhưng trong khi bàn việc trao duyên, nghĩ đến người yêu, tình cảm của Kiều lại bộc lộ mạnh mẽ. Kiều như quên Thuý Vân đang ngồi trước mặt mà chuyển sang trò chuyện với chàng Kim trong tưởng tượng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! – Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”. Nếu chỉ đơn thuần là những lời dặn dò Thuý Vân thì tâm trạng nhân vật sẽ đều đều, bi kịch của thân phận và tình yêu không được đẩy tới đỉnh điểm, nhân cách cao đẹp của Kiều cũng không có điều kiện bộc lộ (Lí do đơn giản: Kiều không thể nói hết nỗi lòng nếu chỉ có Thuý Vân trước mặt. Kiều còn than thân trách phận, còn tâm sự với Kim Trọng như Kim Trọng đang ở trước mặt nàng).

è Việc chuyển đổi đối tượng này cho thấy Kiều luôn nghĩ về Kim Trọng, do đó chiều sâu tình cảm của nàng được bộc lộ.

è Đây lại thêm một cách tả, cách nhìn tình yêu của Kiều từ một phương diện khác. Nghệ thuật diễn tả nội tâm đã góp phần khắc hoạ vẻ đẹp toàn diện, mới mẻ của Thuý Kiều. Nguyễn Du muốn cho độc giả thấy Thuý Kiều không chỉ là cô gái hiếu nghĩa mà còn là cô gái có tình yêu sâu sắc.

Câu 2: "Trao duyên" là chuyện tế nhị và khó nói. Theo anh (chị), Kiều đã nói và làm như thế nào để Thuý Vân chấp nhận? Tìm hiểu sức thuyết phục trong lời lẽ và hành vi của Kiều.

Trả lời:

Về việc "trao duyên" của Thuý Kiều:

– Thuý Kiều nhờ em gái là Thuý Vân thay mình lấy một người mà em chưa thực sự quen biết. Dù Thuý Vân tính tình đơn giản thế nào thì yêu cầu này cũng quá ư đột ngột, bởi đây là chuyện quan hệ đến cả một đời người. Vì thế lời của Kiều vừa trông cậy, vừa nài ép. Em hãy xác định và phân tích những lời nói và việc làm của Kiều để buộc Thuý Vân nhận lời (Chú ý cách nói: "cậy", "chịu lời", "Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”; do đâu mà "Giữa đường đứt gánh tương tư”; gợi "tình máu mủ").

– Em cần lưu ý là tác giả dùng từ rất tinh tế. Dùng "cậy" mà không dùng "nhờ" vì "cậy" có ý tin chắc là người khác nhất định sẽ nghe mình, còn "nhờ" thì có thể tuỳ ý, không ép buộc. Cũng vậy, "chịu lời" và "nhận lời" có vẻ giống nhau, nhưng "chịu lời" là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện, hoặc một việc khó chối từ. Chữ "cậy" ứng với chữ "chịu lời", được tác giả cân nhắc kĩ. Nếu nói thơ xưa chuộng từ đắt, thì đây là một trường hợp dùng từ như vậy. Cần nói thêm chữ "có" ở câu 1, vẻ như ướm hỏi, nhưng thực chất là ép buộc. Hai chữ "mặc em" trong câu "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em" nói rõ cái ý giao phó trách nhiệm cho em thực hiện.

è Nguyễn Du đã thể hiện tài nghệ tuyệt vời khi để nhân vật Thuý Kiều có những lời lẽ và hành vi đầy sức thuyết phục trong đêm "trao duyên" cho Thuý Vân.

Câu 3: Tâm trạng mâu thuẫn của Kiều khi trao duyên được thể hiện như thế nào qua những lời dặn dò Thuý Vân: "Chiếc vành với bức tờ mây – Duyên này thì giữ vật này của chung".

Trả lời:

Tâm trạng mâu thuẫn của Kiều khi "trao duyên":

– Ta hiểu rằng chuyện tình duyên là không thể trao được. Do đó, khi buộc phải "trao duyên" thì sinh mâu thuẫn. Em hãy xác định mâu thuẫn trong câu thơ:

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

– Tờ hoa tiên ghi lời thề nguyền của Kiều và chàng Kim, chiếc vành trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm của tin bây giờ đều được trao lại cho Vân. Nhưng điều đặc biệt là ở mấy chữ "giữ" và "của chung". Chữ "giữ" không có nghĩa là "trao" hẳn mà chỉ để cho em giữ, còn chữ "của chung" thì quá rõ, đều thể hiện cái tâm lí có tính bản năng là không đành lòng trao lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của Kiều với Kim Trọng là rất nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn "trao duyên" cho em thì chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết.

 

4. VẬN DỤNG CAO (3 câu)

Câu 1: Phân tích tâm trạng Kiều sau khi “trao duyên” và ý thức của nàng về nỗi đau thân phận khi tình yêu tan vỡ.

Trả lời:

Tâm trạng của Kiều sau khi "trao duyên":

– Khi duyên đã trao cho Thuý Vân, tức là mất Kim Trọng, Kiều thấy cuộc sống hạnh phúc của mình đến đây chấm dứt, lời nàng chuyển hẳn sang giọng thương mình. Nghĩ đến tương lai, Kiều chỉ còn tưởng đến cái chết và oan hồn mình sẽ tìm về theo ngọn gió:

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

– Kiều Nguyệt Nga trong truyện Lục Vân Tiên cũng nói: “Hiu hiu gió thổi ngọn cây – Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha”. Với Kiều, lời người trở về là lời của một oan hồn:

Tưới xin chén nước cho người thác oan

– Cái tương lai đó làm cho Kiều đau đớn tột cùng. Nàng quên hết xung quanh, chỉ còn khóc cho mình, khóc cho mối tình định dày công vun xới mà sao ngắn ngủi:

Bây giờ trâm gãy, gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

– Đó là tiếng khóc cho một số phận, là tiếng kêu đứt ruột cho một mối tình.

– Chú ý: Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với người yêu (vắng mặt), từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến của tâm trạng Thuý Kiều mà nỗi đau đớn cứ tăng lên mãi, đau đớn cho "phận bạc như vôi", càng đau đớn do "phận bạc" nên đã phụ tình người mình yêu.

Câu 2: Đoạn trích Trao duyên là những dòng thơ lâm li thể hiện bi kịch tình yêu đau đớn bậc nhất trong Truyện Kiều. Hãy cho biết thực chất bi kịch ở đây là gì.

Trả lời:

– Cơ sở của tính bi kịch là ở sự hi sinh, có thể nói hai lần Kiều hi sinh tình yêu của mình. Lần thứ nhất, trong tương quan giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều đã hi sinh tình yêu của mình cho lòng hiếu thảo. Lần thứ hai, đối với Kim Trọng, Kiều lại hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người yêu. Hai sự hi sinh ấy, một mặt làm cho nhân vật trở nên cao thượng, nhưng mặt khác nỗi đau đớn, xót xa lại cho thấy hết cái giá của sự hi sinh, nó làm thức tỉnh ý thức về tình yêu, về hạnh phúc cá nhân. Và nhờ thế đoạn trích Trao duyên thể hiện được sâu sắc tư tưởng nhân đạo của nhà thơ.

 

Câu 3: Viết bài văn phân tích văn bản.

Trả lời:

Bằng sự xót thương, đồng cảm cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Thúy Kiều - hình tượng đại diện cho vẻ đẹp, số phận đau khổ, bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Trích đoạn “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm đã thể hiện rõ điều này. Đây là những câu thơ có vị trí “bản lề”, đánh dấu sự mở đầu, bước ngoặt định mệnh của 15 năm lưu lạc trong cuộc đời của Thúy Kiều.

Trước hết, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên”: “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác, phó mặc. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, khéo léo, sắc sảo đó, chúng ta có thể thấy được Kiều là một người hết sức khôn khéo. Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng: em - “ngồi lên”, chị - “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ trên đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn, mang ơn đối với Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Tác giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim - Kiều khắc cốt ghi tâm qua những hình ảnh ước lệ: “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng. Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Như vậy, qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc sảo.

Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: Chiếc Hoa, Bức Tờ Mây, Phím Đàn, Mảnh Hương Nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng - Thúy Vân - Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”.

Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.

Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Nàng quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ: “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Đoạn thơ đã làm nổi bật hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều.

Như vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du.

=> Giáo án Ngữ văn 11 cánh diều Bài 2 Đọc 2: Trao duyên

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay