Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều bài 1: Sóng

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 1: Sóng , Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Cánh diều.

BÀI 1: THƠ VÀ TRUYỆN THƠ

VĂN BẢN 1: SÓNG
 (14 câu)

 

1. NHẬN BIẾT (4 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản Sóng (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

- Tác giả: Xuân Quỳnh

- Thể loại: Thơ

- Bài thơ, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.

- Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào.

- Bài thơ Sóng thể hiện chân thực, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương, gắn bó, một trái tim luôn trăn trở, lo âu, một tấm lòng luôn mong được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu. Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng: sóng và em. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ, là hình tượng được miêu tả trong những cung bậc khác nhau của tình yêu. Sóng chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của em.

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Xuân Quỳnh.

Trả lời:

- Xuân Quỳnh (1942 – 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội. Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa Đoàn Văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III.

- Tác phẩm chính: thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may (1989), Bầu trời trong quá trứng (thơ viết cho thiếu nhi, 1982); truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn (1985).

- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đầm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Năm 2017, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Câu 3: Em có nhận xét gì về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ? Âm điệu, nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?

Trả lời:

– Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa hơn, chính là nhịp của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc trong trái tim nữ thi sĩ.

- Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh. Thể thơ năm chữ cùng với sự linh hoạt, phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển (và cả sóng lòng nữa) khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.

Câu 4: Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.

Trả lời:

Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng.

– Ở lớp nghĩa thực, hình tượng sóng được miêu tả cụ thể, sinh động, với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau.

– Ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng như có hồn, có tính cách, tâm trạng, biết bộc bạch, giãi bày, biết diễn tả sự phong phú, phức tạp nhiều khi đầy mâu thuẫn trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu: khi bồng bột sôi nổi, lúc kín đáo sâu sắc; vừa đắm say vừa tỉnh táo; vừa nồng nhiệt vừa âm thầm,... Tất cả làm nổi bật trạng thái bất yên, thao thức nhưng tràn đầy hạnh phúc (“Vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên.” – Xuân Quỳnh, Thuyền và biển).

– Hình tượng sóng được khắc hoạ cụ thể, sinh động và toàn vẹn qua mạch kết nối các khổ thơ. Qua từng khổ thơ, hình tượng sóng được liên tục khám phá, phát hiện. Những ý nghĩ, những liên tưởng về biển, về sóng và gió cùng với những câu hỏi liên tiếp được đặt ra đã diễn tả tinh tế mà sâu sắc những tình cảm, những trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu.

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Giữa sóng em trong bài thơ có mối quan hệ như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.

Trả lời:

Sóng là hình ảnh, là biểu tượng cho tâm hồn người con gái – một kiểu của cái tôi trữ tình nhập vai. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng và em, tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc lại hoà nhập để nói lên những nét, những phương diện phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu.

– Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: sóng và em. Sóng biển xôn xao, triền miên vô tận gợi liên tưởng đến sóng lòng dào dạt, tràn đầy khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Song hành với sóng là em. Cấu trúc song hành này góp phần tạo nên chiều sâu nhận thức và nét độc đáo cho bài thơ.

Câu 2: Hình tượng sóng em được nhà thơ xây dựng với dụng ý nghệ thuật như thế nào?

Trả lời:

– Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh, chưa có trong các bài thơ tình nào.

– Nhà thơ dựng lên hai hình tượng sóng và em song hành suốt theo mạch bài thơ như một cộng hưởng để nói lên những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp và tinh tế trong tình yêu: vừa dữ dội vừa dịu êm, vừa ồn ào vừa lặng lẽ: “Nỗi khát vọng tình yêu – Bồi hồi trong ngực trẻ”. Hình tượng sóng được hình tượng em bổ sung, đồng vọng: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu từ đâu?”, còn “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Sóng nhớ bờ “Ngày đêm không ngủ được” thì “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Sóng thì “Con nào chẳng tới bờ” còn em thì “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh – một phương”.

- Bài thơ mượn hình tượng sóng để nói chuyện tình yêu. Nhưng sóng không phải là một ẩn dụ hoàn chỉnh. Ẩn dụ ấy được giải thích ngay từ nửa sau của khổ thơ thứ hai, không đợi người đọc phải suy đoán, phải tìm cách “giải mã” dẫu rằng cuộc giải mã vẫn cần được tiếp tục ở một cấp độ cao hơn... Xuân Quỳnh bày tỏ nồng nàn, cùng kiệt nỗi yêu thương và khát vọng của mình. Khi cần, chị đứng ra thuyết minh trực tiếp. Chẳng hạn, sau khổ thơ miêu tả những con sóng dưới lòng sâu, trên mặt nước, ngày đêm không ngủ được vì nhớ bờ, chị “bồi” thêm hai câu rất đột ngột, phơi lộ cái tôi của mình:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức...

è Khi hoá thân vào sóng, khi đứng hẳn ra xưng em một mà hai, hai mà một, cái tôi Xuân Quỳnh lúc nào cũng trăn trở không yên. Vừa bộc lộ gián tiếp lại vừa giãi bày trực tiếp, khi ẩn, khi hiện, đấy mới chính là “nhịp sóng” ngầm của bài thơ, quy định những xao động bề mặt, biểu hiện qua câu chữ và âm điệu nhịp điệu tương đối dễ thấy...

 

Câu 3: Theo em, vì sao bài thơ đã sống được rất lâu trong lòng độc giả?

Trả lời:

Tạo được một hiệu quả nghệ thuật lâu bền như vậy vì bài thơ đã nói được rất hay và rất đúng về một tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ và quý giá của con người mọi thời đại. Đó là tình yêu.

– Cái hay là những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ như kết cấu độc đáo của hình tượng sóng và em, âm hưởng và giọng điệu bài thơ, thể thơ năm chữ,...

– Cái đúng chính là sự nhận thức và phát hiện khá tinh tế, sâu sắc những tình cảm, những trạng thái tâm hồn con người ta khi yêu nhau “Bồi hồi trong ngực trẻ”, khát vọng lí giải tình yêu đến từ đâu và tự lúc nào: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu từ đâu? – Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Yêu là nhớ, yêu là mong đợi, yêu là khát vọng chung tình và chung thuỷ,...

Câu 4: Hãy phân tích 4 khổ thơ đầu của bài thơ.

Trả lời:

Trong 4 khổ thơ đầu của bài thơ, nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những phẩm chất, những trạng thái tâm lí bí ẩn, riêng tư, đầy nữ tính của một trái tim phụ nữ đang say đắm trong tình yêu.

- Khổ 1: Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ gợi sự liên tưởng sâu xa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ.

+ Hai câu đầu miêu tả sự thất thường muôn đời của sóng gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi yêu; tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy biến động:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

+ Tới hai câu sau, sóng được đặt trong mối quan hệ với sông và bể; ý nghĩa ẩn dụ giúp nhà thơ khám phá nét tương đồng giữa tình yêu và sóng, đó là đều khao khát vươn tới sự lớn lao, phóng khoáng:

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

- Khổ 2: Cấu trúc cảm thán và ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng đã thể hiện sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: Cũng như những con sóng muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người, mà mãnh liệt nhất là ở tuổi trẻ.

- Khổ 3, 4:

+ Con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn và cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng những băn khoăn, suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi dồn dập như những con sóng miên man không dứt.

+ Câu trả lời chung cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay quy luật – nếu có thì đấy cũng là quy luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng của tình yêu.

Câu 5: Hãy phân tích 5 khổ thơ cuối của bài thơ.

Trả lời:

Trong 5 khổ cuối của bài thơ, nhân vật trữ tình thông qua sóng để tự biểu hiện những nỗi niềm, cảm xúc; tan vào sóng để dâng hiến và bất tử.

- Khổ 5: Nỗi nhớ và những dự cảm trong tình yêu

+ Trong 4 câu thơ đầu, nhà thơ miêu tả sắc thái của sóng, quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, mượn sóng để thể hiện trước hết là nỗi nhớ – trạng thái cảm xúc luôn gắn liền với tình yêu.

+ Hai câu sau trực tiếp bộc lộ cả nỗi nhớ cùng những dự cảm, lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm đắng cay.

- Khổ 6: Bản lĩnh của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là sự thuỷ chung son sắt bất chấp mọi thử thách, mọi khó khăn trắc trở.

- Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu

Nếu khổ 6 thể hiện sự thuỷ chung son sắt của người phụ nữ trong tình yêu thì tới khổ 7, thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã mượn chính quy luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và khẳng định niềm tin vào sự thuỷ chung của mình, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của tình yêu khi con sóng nhớ bờ của khổ 5 đã trở thành con sóng tới bờ trong khổ 7.

- Hai khổ cuối: Tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử

+ Khổ 8 tiếp tục mở ra những trăn trở, nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và sự hữu hạn của đời người, nhất là của tình yêu. Cảm giác này thường xuất hiện ở những con người từng trải, từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương và vì thế luôn khát khao sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn.

+ Cảm giác về sự hữu hạn khiến Xuân Diệu tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính, đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có thể; còn Xuân Quỳnh lại mong ước được hi sinh và dâng hiến, cũng là mong được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vi tha.

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Khổ thơ thứ 4 là một cách cắt nghĩa “rất Xuân Quỳnh” về quy luật của tình yêu. Em hiểu cách cắt nghĩa ấy như thế nào?

Trả lời:

- Khổ thơ này là cách cắt nghĩa rất Xuân Quỳnh – nghĩa là rất nữ tính, rất trực cảm. Lô gích của phụ nữ là lô gích trái tim, đấy là cách người ta nhận xét về đặc điểm tư duy nữ giới. Với Xuân Quỳnh, nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu đều rất bí ẩn, đều kì lạ. Sự cắt nghĩa này cho thấy một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm đến trước lí trí. Với người đang yêu thì tình yêu bao giờ cũng thiêng liêng vì nó bí ẩn, nó như là "thiên định". Chính vì thế nên nó càng quyến rũ.

Câu 2: Kết cấu bài thơ dựa trên sự tương đồng giữa tâm trạng người phụ nữ đang yêu với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó và hiệu quả thẩm mĩ từ nghệ thuật kết cấu của bài thơ.

Trả lời:

- Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: sóngemsóng nước xôn xao, triền miên vô tận gợi liên tưởng đến sóng lòng đang tràn đầy khao khát trước tình yêu đôi lứa. Khi yêu, người ta thường thấy mình đang tự vượt ra khỏi cái tôi quen thuộc của chính mình để bước vào một thế giới mới lạ, lớn lao hơn. Cô gái đang yêu trong bài thơ đối diện với tình yêu như đối diện với biển cả bao la, cô tìm thấy sự đồng điệu giữa mình và con sóng, cô phân thân, hoá thân vào sóng. Sóng giống như em, sóng cũng là em, luôn luôn thao thức, luôn luôn xao động, tự biểu hiện mình để hiểu mình hơn.

- Ở mỗi khổ thơ, sóng hiện lên một diện mạo, một ý nghĩa. Cả bài thơ sẽ đem lại ấn tượng tổng hợp về hình tượng con sóng giàu biến thái, có tính cách phức tạp, nhiều khi khó hiểu nhưng lại luôn thống nhất ở bề sâu sự sống của tự nhiên: sóng sinh ra từ biển, sóng là nỗi khát khao của biển, sóng ngàn năm ru vỗ bến bờ để biển bờ hoà nhập. Qua mỗi khám phá về sóng, em lại thấy mình trong đó.

– Hai khổ đầu: Con sóng không bình yên, không tự bằng lòng với khuôn khổ chật hẹp, nó "tìm ra tận bể" để được biểu hiện mình, để được hiểu đúng với tầm vóc, bản chất của mình. Tính cách này của sóng giống như bản lĩnh chủ động, tính cách kiêu hãnh của người con gái khi yêu. Cũng như sóng, cô gái mang đến tình yêu nhiều trạng thái cảm xúc phong phú, nhiều khi trái ngược: lúc dữ dội, lúc dịu êm, khi ồn ào, khi lặng lẽ,... (Sự nhạy cảm của nữ giới đã khiến nhân loại tin rằng phụ nữ khó hiểu hơn nam giới, tính cách thất thường hơn nam giới). Mỗi trạng thái đó ẩn chứa một khát vọng tình yêu. Khát vọng quá lớn không một trạng thái cụ thể nào chứa nổi, cho nên với em, yêu chính là tự nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao.

- Hai khổ tiếp theo: Khẳng định sự tương đồng giữa sóngem – một cô gái trẻ đang yêu, cũng là khẳng định một "quy luật của muôn đời”: nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu đều lạ lùng, bí ẩn và đều kì diệu như tự nhiên. Ca dao xưa từng diễn tả rất hay cái bí ẩn khó bề cắt nghĩa đó: "Gió sao gió mát sau lưng - Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này?". Trước Xuân Quỳnh hơn ba chục năm, Xuân Diệu cũng kêu lên: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?". Nhưng chính sự bí ẩn lại có sức hấp dẫn, thôi thúc con người khám phá, nhận thức. Xuân Quỳnh đã dùng liên tiếp hai câu hỏi tu từ vừa để nói cái trăn trở, băn khoăn, vừa khẳng định niềm đam mê không gì sánh được của tình yêu: cũng như sóng, như gió, tình yêu là sức mạnh tự nhiên, vẻ đẹp tự nhiên, sâu xa như tự nhiên.

- Các khổ còn lại vẫn nương theo cấu trúc song trùng, tương ứng, hoà nhập, đắp đổi giữa emsóng: tác giả tiếp tục phát hiện sóng là nỗi nhớ, là sự thuỷ chung, là khát vọng mãnh liệt, bất tử về tình yêu. Soi mình vào sóng, hoá thân vào sóng, cái tôi tác giả đã sôi nổi, chân thành bộc lộ mình: một cái tôi đang yêu nồng nhiệt, đầy chủ động, kiêu hãnh nhưng cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình, về hành trình hạnh phúc trong các quy luật muốn thuở của cõi người.

Câu 3: Những xúc cảm trong tình yêu (nỗi nhớ, niềm thương, sự lo âu, khát khao gắn bó dài lâu, cảm giác hạnh phúc,…) thường mang tính phổ quát nhưng mỗi nhà thơ lại có cách nói riêng. Theo em, đâu là cái riêng của Xuân Quỳnh ở bài thơ Sóng?

Trả lời:

- Là một tình cảm nhân bản gắn với những giá trị sống quan trọng vào bậc nhất của con người ở mọi thời đại, các xúc cảm trong tình yêu như nỗi nhớ, niềm thương, sự lo âu, khát khao hoà nhập, cảm giác say mê hay thất vọng, v.v. thường có tính phổ quát. Có điều, mỗi nhà thơ thực sự có tài bao giờ cũng có cách nói riêng. Đấy là do tâm tính, kinh nghiệm sống và vốn liếng văn hoá quy định. Cái riêng của Xuân Quỳnh ở bài Sóng trước hết liên quan đến nhãn quan nữ giới (giàu trực cảm và ưa bộc bạch). Nhưng không phải người phụ nữ nào cũng cả lo như Xuân Quỳnh. Hai khổ cuối bài thơ với kiểu câu nhượng bộ "tuy... vẫn, vẫn" và kiểu câu hỏi buông lơi không chỉ khẳng định nhu cầu gắn bó dài lâu mà còn bộc lộ cả sự lo âu trước cái hữu hạn của đời người. Thêm nữa trong tư thế chủ động, bình đẳng của người phụ nữ thời hiện đại, Xuân Quỳnh vẫn giữ được cho nhân vật trữ tình nét tâm lí truyền thống nồng nàn mà ý nhị, sôi nổi mà đằm thắm.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Trình bày cảm nhận của em về bài thơ.

Trả lời:

Tham khảo:

- Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lí đặc biệt của một tâm hồn khao khát yêu đương đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường vừa phong phú, vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tính khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm – Ồn ào và lặng lẽ”... Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể”. Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khát khao yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận bể”, để đến với cái cao rộng, bao dung. Thật minh bạch và cũng thật quyết liệt!

- Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim, trong quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu. Với con người, tình yêu bao giờ cũng là một khát vọng bồi hồi:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

- Khi tình yêu đến, như một tâm lí tự nhiên và thường tình, người ta luôn có nhu cầu tự tìm hiểu và phân tích. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường, đầy bí ẩn, không thể giải thích được câu hỏi về khởi nguồn của nó, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Cái điều mà trước đó đã từng làm Xuân Diệu băn khoăn “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” thì nay, một lần nữa lại được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời, làm sao mà hiểu hết được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên, và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân Quỳnh – một cách cắt nghĩa nữ tính và trực cảm.

– Tình yêu cũng thường gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng nhưng rõ nhất, dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

- Như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ, cùng với lòng thuỷ chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Nỗi nhớ được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ “ngày đêm không ngủ được”; vẫn chưa đủ, chưa thoả, lại một lần nữa được thể hiện qua nỗi nhớ trực tiếp: “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ ấy thường trực trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi vào trong tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Những đòi hỏi, khao khát yêu đương của người con gái được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ cũng như em luôn khao khát có anh! Tình yêu của người con gái ở đây vừa thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, giản dị, thuỷ chung, duy nhất. Qua hình tượng sóng và em, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình – một phụ nữ – điều thật hiếm thấy trong văn học Việt Nam trước đó.

- Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai, vẫn tin vào cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như con sóng nhất định sẽ “tới bờ”, “dù muôn vời cách trở”. Tương lai, hạnh phúc như đang còn cả ở phía trước đối với Xuân Quỳnh. Nhưng bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim nhạy cảm, nhà thơ cũng sớm nhận ra và thấm thía về sự hữu hạn của kiếp người:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

- Xuân Quỳnh vừa thổ lộ trực tiếp, vừa mượn hình tượng sóng để nói và suy nghĩ về tình yêu. Những ý nghĩ này có vẻ tự do, tản mạn, nhưng từ trong chiều sâu của thi tứ vẫn có sự vận động nhất quán. Đó là cuộc hành trình khởi đầu, là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

è Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi đã nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu thương của nữ thi sĩ.

 

Câu 2: Tìm đọc bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu). Cảm xúc của Xuân Quỳnh về tình yêu trong bài Sóng có điểm nào gần gũi với cảm xúc của Xuân Diệu trong bài Vội vàng?

Trả lời:

– Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai tác giả thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng trong cảm thức về tình yêu – một chủ đề muôn thuở – vẫn có những điểm gần gũi.

Một số gợi ý:

- Cả hai nhà thơ đều nói lên khát vọng mãnh liệt, thiết tha trong tình yêu. Xuân Diệu thú nhận: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” ... “Ta muốn ôm”... “Ta muốn riết"... “Ta muốn say”... “Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều"... Còn nhà thơ nữ cũng không giấu giếm: “Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”...

- Cả hai đều dự cảm, lo lắng về tính hữu hạn của tình yêu: Xuân Diệu lo lắng muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại,... và day dứt về cái ngắn ngủi của tình yêu: “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật – Không cho dài thời trẻ của nhân gian”... Xuân Quỳnh nghĩ: “Cuộc đời tuy dài thế – Năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”.

 

=> Giáo án Ngữ văn 11 cánh diều Bài 1 Đọc 1: Sóng

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay