Câu hỏi tự luận Ngữ văn 9 cánh diều Bài 2: Kiều ở lầu Ngưng Bích
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 9 cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 2: Kiều ở lầu Ngưng Bích. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 9 cánh diều.
Xem: => Giáo án ngữ văn 9 cánh diều
BÀI 2: TRUYỆN THƠ NÔM
VĂN BẢN 3: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(11 câu)
1. NHẬN BIẾT (4 câu)
Câu 1: Nêu vị trí của đoạn trích?
Trả lời:
- Đoạn trích nằm ở phần II: Gia biến và lưu lạc.
- Gắn với sự kiện: Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt và làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, chấp nhận cuộc sống lầu xanh tủi nhục. Quá đau đớn, Thuý Kiều tự tử. Tú Bà sợ Thuý Kiều chết thì vốn liếng “đi đời nhà ma” bèn lừa gạt, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang rồi hứa hẹn khi Kiều bình phục sẽ gả cho người tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở Ngưng Bích nhưng thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện một âm mưu mới đê tiện và tàn bạo hơn.
Câu 2: Nêu bố cục của đoạn trích?
Trả lời:
- Phần 1 (6 câu thơ đầu): Vẻ đẹp thiên nhiên lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Kiều.
- Phần 2 (8 câu thơ tiếp theo): Nỗi nhớ thương Kiều dành cho người yêu và cha mẹ.
- Phần 3 (tám câu thơ cuối): Bức tranh tâm trạng của Kiều.
Câu 3: Nêu giá trị nội dung của tác phẩm?
Trả lời:
Câu 4: Nêu giá trị nghệ thuật của tác phẩm?
Trả lời:
2. THÔNG HIỂU (5 câu)
Câu 1: Vẻ đẹp thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích qua cái nhìn của Kiều được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
- “Ngưng Bích” → chỉ địa danh nhưng lại mang ý nghĩa ngưng đọng tuổi xuân, sắc xuân
- “Khóa xuân” → bị giam cầm, chôn vùi tuổi trẻ.
- Cảnh sắc hoang vắng, lạnh lẽo: dãy núi ở xa, mảnh trăng gần, cồn cát nối tiếp với bụi hồng trải dài ở xa
- Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/ “trăng gần”; đảo ngữ, từ láy “bát ngát” → gợi không gian thiên nhiên mênh mông, vắng lặng không một bóng người.
Câu 2: Sự đâu đớn, tủi nhục cho thân phận của Kiều được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
+ Từ láy “bẽ bàng” → tâm trạng Kiều: xót xa, tủi hổ, nhục nhã ê chề... khi ý thức được nhân cách, phẩm hạnh của mình.
+ “Mây sớm đèn khuya” → thời gian tuần hoàn khép kín, lặp lại. Kiều thấy tuyệt vọng, buồn tủi, trong nỗi cô đơn đến “bẽ bàng”.
+ “như chia tấm lòng” → sự chua xót, buồn đau của Kiều chỉ có cảnh vật nơi đây chứng kiến, chia sẻ.
→ Sử dụng bút pháp chấm phá tạo nên khung cảnh hoang vắng, làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình.
Câu 3: Nỗi nhớ thương Kiều dành cho người yêu được diễn tả như thế nào?
Trả lời:
Câu 4: Kiều lo lắng gì cho cha mẹ của mình ở nơi xa?
Trả lời:
Câu 5: Toàn cảnh bức tranh tâm trạng của Kiều được miêu tả như thế nào?
Trả lời:
3. VẬN DỤNG (1 câu)
Câu 1: Viết dàn ý cho phân tích bài thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích?
Trả lời:
1. Mở bài
- Giới thiệu về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giới thiệu về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: thuộc phần đầu của tác phẩm, sau khi Kiều bán thân cứu cha và rơi vào tay Tú Bà
- Đoạn trích là bức tranh tâm trạng nhiều cảm xúc và nỗi niềm của Kiều khi rơi vào hoàn cảnh đau xót -> Vậy nên có người đã đưa ra ý kiến "Qua đoạn trích, ... tâm tình xúc động".
2. Thân bài
* Nêu ý kiến của em về nhận định trên:
- Đây là một nhận định hoàn toàn đúng: Đoạn trích miêu tả những phút giây tâm trạng rối bời của Kiều khi biết mình rơi vào cảnh thanh lâu.
- Ý nghĩa của nhận định trên: Tấm lòng thương yêu của Nguyễn Du đã giúp ông dựng lên bức tranh tâm tình đầy nhân đạo này.
* Phân tích đoạn trích để làm rõ nhận định:
- 6 câu đầu: Hoàn cảnh và tâm trạng buồn tủi của Kiều khi sống trong lầu Ngưng Bích
- Nỗi buồn của Kiều được thể hiện qua hình ảnh của thiên nhiên: mênh mông, bát ngát nhưng không một bóng người
- "Khóa xuân": đóng khung, khóa chặt tuổi trẻ, thanh xuân
-> Cảnh vật cũng hiu hắt, bẽ bàng như chính Kiều vậy. Tâm trạng của Kiều buồn tủi, khổ đau nên nhìn cảnh vật cũng héo hon, sầu muộn. Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- 4 câu tiếp theo: tâm trạng của Kiều khi nhớ về Kim Trọng
- Nàng nhớ đêm thề nguyền dưới trăng cùng Kim Trọng
- Hình dung ra hình bóng chàng đang mỏi mòn chờ tin của nàng
- "tấm son gột ... phai": Tâm trạng nhung nhớ mối tình đầu, đến bao giờ mới có thể phai nhòa.
-> Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ để diễn tả nỗi nhớ người yêu tha thiết của Kiều và tấm lòng thủy chung son sắt của nàng.
- 4 câu tiếp: Nỗi nhớ người thân, cha mẹ ở nơi xa
- "Xót": Động từ mạnh - nỗi đau khôn cùng của Kiều khi phải để mẹ cha tựa cửa trông chờ trong vô vọng.
- "Quạt lồng ấp lạnh": Lo lắng không ai chăm sóc cha mẹ, thương nhớ cha mẹ khôn nguôi
- Các điển cố "Sân Lai, gốc tử": Diễn tả tấm lòng hiếu thảo của Kiều khi không được chăm sóc cha mẹ khi về già.
-> Tấm lòng đầy hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
- 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều
+ Điệp từ "Buồn trông" + các từ láy liên tiếp được sử dụng:
- Cảnh vật "cửa bể chiều hôm" - "thuyền ai... xa": Nỗi cô đơn của Kiều gợi tả sự lạc lõng, phải lưu lạc nơi chân trời, cửa bể.
- Cảnh vật "ngọn nước mới sa" -"hoa... đâu": Số phận lênh đênh, ba chìm bảy nổi của nàng Kiều, chẳng biết sẽ đi tới đâu.
- Cảnh vật " nội cỏ rầu rầu" - " chân ... xanh": Một tương lai mờ mịt của một con người thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến. Chỉ là một ngọn cỏ giữa mênh mông.
- Cảnh vật "gió cuốn mặt duềnh" - "ầm ... ngồi": Tâm trạng lo sợ, hãi hùng của Kiều trước bão tố của cuộc đời đang cuốn lên, bủa vây nàng.
+ Nghệ thuật: Sử dụng liên tiếp từ láy, điệp từ, thanh bằng tạo nên nỗi buồn trùng trùng điệp điệp.
+ Miêu tả cảnh vật từ xa tới gần: Tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùng nỗi nhớ quê hương, người thân.
-> Bức tranh tả cảnh ngụ tình: Tâm trạng của Kiều đã lan tỏa sang những cảnh vật xung quanh nàng khiến chúng cũng mang một nỗi buồn sâu sắc.
-> Nỗi buồn của nàng cũng khiến cảnh vật xung quanh mang đầy màu tâm trạng: Đây chính là bức tranh tâm tình đầy xúc động.
* Kết luận chung:
- Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi, lạc lõng, sợ hãi, những dự cảm không lành của Kiều trước muôn vàn sóng gió cuộc đời. Cùng với đó là tấm lòng yêu thương, hiếu thảo của người con dành cho cha mẹ
- Nỗi buồn của nàng thấm sang cảnh vật khiến chúng cũng mang đầy vẻ tâm trạng.
- Nghệ thuật đặc sắc: Tả cảnh ngụ tình, điệp từ, từ láy, cùng cách sử dụng thanh sắc cực kì tinh tế.
3. Kết bài
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc, tinh tế, giàu tính biểu cảm.
- Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thương vô cùng của mình dành cho Kiều qua bức tranh tâm tình xúc động.
4. VẬN DỤNG CAO (1 câu)
Câu 1: Viết bài văn phân tích và cảm nhận của em về tác phẩm Kiều ở lầu Ngưng Bích?
Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại - tác phẩm Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, Truyện Kiều còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành công cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm trong phần "Gia biến và lưu lạc". Đoạn thơ dài 22 câu, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều. Cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ "khóa xuân" đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đày vào chốn lầu xanh ô nhục. "Lầu Ngưng Bích" vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh trữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ "non xa", "trăng gần", "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia". Thế nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!", trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng. Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán nản, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa.
Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu của mình:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lý, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ "tưởng", "trông", "chờ" trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, "rày trông mai chờ" uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cảm, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi "bên trời góc bể", bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ "hôm mai", "cách mấy nắng mưa" chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, "tựa cửa hôm mai" mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", cùng với điển tích "Sân Lai", "Gốc tử" đã nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu lòng vị tha.
Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Khung cảnh mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. "Cửa bể chiều hôm" gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ "thấp thoáng", "xa xa" gợi sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hy vọng mong manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. "Thuyền ai" lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ. Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn.
------------------------------
----------------- Còn tiếp ------------------
=> Giáo án Ngữ văn 9 Cánh diều bài 2: Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)