Đáp án Ngữ văn 9 cánh diều Hướng dẫn tự học bài 2

File đáp án Ngữ văn 9 cánh diều Hướng dẫn tự học bài 2. Toàn bộ câu hỏi, bài tập ở trong bài học đều có đáp án. Tài liệu dạng file word, tải về dễ dàng. File đáp án này giúp kiểm tra nhanh kết quả. Chỉ có đáp án nên giúp học sinh tư duy, tránh học vẹt.

Xem: => Giáo án ngữ văn 9 cánh diều

HƯỚNG DẪN TỰ HỌC BÀI 2

Câu 1:  Truy cập Internet hoặc tìm trong sách, báo những thông tin về nguồn gốc và sự hình thành, phát triển của chữ Nôm và truyện thơ Nôm.

Soạn chi tiết:

Chữ Nôm và truyện thơ Nôm là những di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam, gắn liền với lịch sử và truyền thống của dân tộc.

Chữ Nôm ra đời từ thế kỷ X, sau khi Việt Nam giành độc lập khỏi ách đô hộ của nhà Đường. Người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán, sử dụng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Ban đầu, chữ Nôm chỉ được sử dụng để ghi chép tên người, địa danh, sau đó dần được sử dụng rộng rãi trong đời sống văn hóa, xã hội. Chữ Nôm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, lịch sử, triết học, tôn giáo... và đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

Truyện thơ Nôm ra đời từ thế kỷ XIV, gắn liền với sự phát triển của chữ Nôm. Truyện thơ Nôm được sáng tác dựa trên các thể loại truyện dân gian, truyện truyền kỳ, truyện lịch sử... là một thể loại văn học độc đáo của Việt Nam, phản ánh hiện thực xã hội và đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Truyện thơ Nôm đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc, với những tác phẩm tiêu biểu như: Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi, Truyện Kiều - Nguyễn Du, Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu, Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều

Sự phát triển của chữ Nôm và truyện thơ Nôm là minh chứng cho sức sáng tạo và trí tuệ của người Việt Nam. Chúng là những di sản văn hóa quý giá cần được gìn giữ và phát huy.

Câu 2:  Tìm đọc thêm một số đoạn trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và hai bài nghiên cứu về mỗi truyện thơ này.

Soạn chi tiết:

Một số đoạn trích Truyện Kiều: Kiều gặp Từ Hải

“Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

2175.Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: Tâm phúc tương cờ

2180.Phải người trăng gió vật vờ hay sao?

Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!

2185.Nàng rằng: Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

Chút riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?

Còn như vào trước ra sau,

2190.Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.

Từ rằng: Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?

2195.Thưa rằng: Lượng cả bao dong,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!

Nghe lời vừa ý gật đầu,

2200.Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

Một lời đã biết tên ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!”

Đoạn trích Kiều báo ân báo oán

“Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non”,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

Tại lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.

[…] Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khâu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chông chung chưa dễ ai chiều cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phai lời.

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên”.

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.”

Một số bài nghiên cứu về Truyện Kiều: Nghiên cứu văn bản truyện Kiều theo phương pháp Hoàng Xuân Hãn (Nguyễn Minh), Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Đỗ Thúy Phương).

Truyện Lục Vân Tiên:

Trịnh Hâm hại Vân Tiên, trói tiểu đồng trong rừng, xô Vân Tiên xuống sông

“Trường thi một lũ vừa về.

Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:

“Anh về nay đã hai rằm,

“Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây.

  1. Tiên rằng tôi vốn chẳng may,

“Chẳng hay chư hữu khoa nầy thế nao?.”

Hâm rằng: “Tử Trực đậu cao,

“Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân,

“Một mình về trước viếng thân,

“Hai người trở việc còn lần đi sau.

“Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,

“Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.

“Từ đây tới quận Đông thành,

“Trong mình có bệnh, bộ hành sao xong”

….

Các bài nghiên cứu về thơ Lục Vân Tiên: Các nhân vật nam trong Lục Vân Tiên đọc theo lý thuyết giới ( Phạm Thị Thu), Lục Vân Tiên trong văn hóa đại chúng Nam Bộ đầu thế kỷ XX nhìn từ lý thuyết liên văn bản. (Tạ Thị Thanh Huyền)

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: File word đáp án Ngữ văn 9 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay