Nội dung chính Ngữ văn 9 chân trời Bài 10: Mùa xuân chín
Hệ thống kiến thức trọng tâm Bài 10: Mùa xuân chín sách Ngữ văn 9 chân trời sáng tạo. Với các ý rõ ràng, nội dung mạch lạc, đi thẳng vào vấn đề, hi vọng người đọc sẽ nắm trọn kiến thức trong thời gian rất ngắn. Nội dung chính được tóm tắt ngắn gọn sẽ giúp thầy cô ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh. Bộ tài liệu có file tải về. Mời thầy cô kéo xuống tham khảo.
Xem: => Giáo án ngữ văn 9 chân trời sáng tạo
BÀI 10: TIẾNG VỌNG NHỮNG NGÀY QUA
VĂN BẢN 2: MÙA XUÂN CHÍN
I. Trải nghiệm cùng văn bản
1. Đọc
- Cách đọc: Khi đọc, HS cần chú ý thể hiện được cảm xúc, ngắt nghỉ đúng nhịp, đọc rõ, trôi chảy, tốc độ đọc phù hợp.
- Câu hỏi trong thẻ chỉ dẫn:
Câu hỏi/ kĩ năng đọc. | Câu trả lời của tôi |
Tưởng tượng: Em hình dung như thế nào về bức tranh thiên nhiên mùa xuân và con người trong ba khổ thơ đầu? | - Dấu hiệu báo xuân sang: Làn nắng ửng; Khói mơ; Mái nhà tranh bên giàn thiên lý. - Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân - Niềm hạnh phúc của lứa đôi. - Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến. |
Suy luận: Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân và con người trong khổ thơ cuối là hình ảnh hiện tại hay quá khứ? | "Khách xa" gợi nhớ về những người con xa quê, nhớ về mùa xuân quê hương. “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” là câu hỏi tu từ, thể hiện nỗi nhớ về hình ảnh người phụ nữ gánh thóc trên bờ sông quê hương trong mùa xuân chín. |
2. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
a. Tác giả
- Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh: Nguyễn Trọng Trí, là nhà thơ có những đóng góp mới mẻ cho phong trào Thơ mới (1932 – 1945).
- Các tác phẩm chính của Hàn Mặc Tử gồm: Gái quê (thơ, 1936); Đau thương (Thơ Điên, thơ, 1938); Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ, 1939); Quần tiên hội (kịch thơ, 1940); Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi, 1940). Ngoài tập Gái quê được in lúc sinh thời, những tác phẩm còn lại được in thành tập sau khi ông mất.
- Chế Lan Viên từng nhận xét về vai trò khó thay thế của ông trong phong trào Thơ mới: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà, rực rỡ của mình”.
b. Tác phẩm
- Mùa xuân chín là bài thơ trích trong phần Hương thơm (tập thơ Đau thương) của Hàn Mặc Tử.
II. Suy ngẫm và phản hồi
1. Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh con người trong bài thơ Mùa xuân chín
a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân của làng quê Việt Nam được gọi tả trong khổ thơ thứ nhất
- Các chi tiết về cảnh vật như: nắng, khói, mái nhà tranh, giàn thiên lí, bóng xuân,...
- Về màu sắc như: nắng ửng, khói mơ tan, lấm tấm vàng, tà áo biếc…
- Về âm thanh, cử chỉ như: sột soạt gió trêu tà áo biếc,....
b. Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ,... gợi tả cảnh sắc thiên nhiên và hình ảnh con người
Khổ thơ | Từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, biện pháp tu từ gọi tả cảnh sắc thiên nhiên, hình ảnh con người | Tác dụng |
1 | - Nắng ửng, khói mơ tan, đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng, tà áo biếc, sột soạt. - Biện pháp tu từ nhân hoá: gió trêu. - Vần bằng: tan – vàng – sang. - Ngắt nhịp: Ba dòng đầu ngắt nhịp 3/4 quen thuộc của thể thơ bảy chữ, nhưng đến dòng cuối thì nhịp thơ ngắn lại với dấu chấm câu đột ngột ở giữa dòng. | Gợi tả sinh động bức tranh xuân tươi mới, tràn đầy sức sống được cảm nhận bằng nhiều giác quan (thị giác, thính giác,...) và cả cảm xúc say mê, rạo rực của tác giả trước “bóng xuân sang”. |
2 | - Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời. - Cô thôn nữ đang độ xuân xanh, hát trên đồi. - Hình thức lời dẫn trực tiếp: – Ngày mai trong đám - xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi... Vần bằng: trời – đồi – chơi. - Nhịp thơ ngân nga, trải ra theo không gian xa rộng. | Gợi tả bức tranh xuân rộng lớn, giàu sức sống với sự xuất hiện của con người ở độ tuổi tươi đẹp, rạng ngời xuân sắc; thể hiện niềm dự cảm về quy luật trôi chảy của thời gian, đời người. |
3 | - Hàng loạt từ láy tượng hình, tượng thanh: + Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,. + Hổn hển như lời của nước mây. + Thầm thì với ai ngồi dưới trúc. + Nghe ra ý vị và thơ ngây. - Vần bằng: mây – ngây. + Nhịp thơ lắng lại theo chiều sâu và dư âm của tiếng hát tâm hồn. | Gợi tả sinh động những dấu hiệu “chín” của mùa xuân qua tiếng hát của tâm hồn, âm thanh trong trẻo ấy được cảm nhận bằng nhiều giác quan (thính giác, thị giác,...). |
c. Vị trí, thời điểm quan sát, miêu tả “mùa xuân chín” của tác giả
- Ở ba khổ thơ đầu, cảnh vật được quan sát chủ yếu từ thời điểm hiện tại (tuy cũng có lúc dự báo tương lai: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy...), người quan sát hoặc đang ngắm nhìn cảnh (Sột soạt gió trêu tà áo biếc./ Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang), hoặc đứng ở một vị trí có thể bao quát cả một bức tranh rộng lớn (Sóng cỏ xanh tươi gọn tới trời/ Bao cô thôn nữ hát bên đổi; Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi;...).
- Đồng thời, người quan sát cảm nhận bức tranh mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác cảm nhận màu sắc, đường nét (nắng ửng, khỏi mơ, lấm tấm vàng, sóng có xanh tươi,...), thính giác cảm nhận âm thanh (sột soạt, bao cô thôn nữ hát,...) và tổng hoà nhiều giác quan khác để cảm nhận (Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi/ Hổn hển như lời của nước mây/ Thầm thì với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý vị và thơ ngây).
- Ở khổ thơ cuối, vào thời điểm “mùa xuân chín” tự xưng là “khách xa”, người quan sát, từ một bối cảnh xa quê, nhìn vào tâm tưởng (lòng trí bâng khuâng) để nhớ và thao thức cùng không gian làng quê của mình, xa xôi, nhưng ấm áp, thân thuộc: - Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Đây là hình ảnh làng quê và “chị ấy” trong quá khứ hay hiện tại? Trong sự tương chiếu với câu thơ dự cảm ở khổ thứ hai: Ngày mai ... có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi, hai dòng thơ cuối thể hiện cảm xúc phức tạp của người khách xa, vừa là tiếc nuối, vừa là mong mỏi.
=> Như vậy, có sự thay đổi vị trí, thời điểm quan sát, miêu tả “mùa xuân chín” của tác giả trong khổ thơ cuối so với ba khổ thơ đầu. Điều này một mặt cho thấy sự thay đổi của bức tranh thiên nhiên mùa xuân cùng hình ảnh con người – những nàng xuân nữ, mặt khác thể hiện tâm trạng, cảm xúc bâng khuâng, nuối tiếc của tác giả.
d. Cách tác giả cảm nhận bước đi của thời gian qua hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ.
- Qua hình ảnh thiên nhiên (năm dòng thơ đầu), mùa xuân không tĩnh lặng mà nhịp bước theo thời gian qua “bóng xuân sang”: bước đi trong làn nắng ửng, trong khói mơ tan, sột soạt, trêu; các tính từ: lấm tấm vàng, tà áo biếc, sóng cỏ xanh tươi;...
- Qua hình ảnh con người (mười một dòng thơ còn lại) – Bao cô thôn nữ hát trên đổi: tiếng ca của các thôn nữ thanh xuân đã đến độ chín, ca hát nhiệt tình trong đám chơi xuân bởi biết đâu ngày mai cũng thành kẻ “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tiếng ca dường như cũng ẩn chứa trong đó bước đi gấp gáp, khác thường của thời gian qua hình ảnh mùa xuân, hình ảnh con người với thể chất và tâm hồn đang chín. Bởi “hát trên đồi”, trên cao nên tạo được âm thanh vắt vẻo lưng chừng núi: nửa đang ở bên này, nửa đã sang bên kia, nửa bên này cũng sắp “bị kéo tuột” sang bên kia theo bước đi của thời gian; hổn hển như lời hò hẹn, hoà âm của nước mây; thầm thì: là thẩm thì nhưng to nhỏ không đều, như có đối thoại ở bên trong; trong sáng: ý vị và thơ ngây.
2. Tâm trạng, cảm xúc của nhân vật “khách xa” và quan niệm, thái độ của nhà thơ
a.
Nỗi nhớ “chị ấy” gắn liền với nỗi nhớ “làng”, hình ảnh người phụ nữ “gánh thóc” “dọc bờ sông trắng nắng chang chang” chợt bừng lên trong tâm hồn “khách xa” – hiện thân của tác giả. Theo đó, khung cảnh làng quê cũng bừng sáng - lên với màu sáng trắng; từ “còn...” trong câu hỏi tu từ thể hiện niềm “bâng khuâng” nhớ nhung, tiếc nuối; cảm xúc được thể hiện bằng cả giác quan (thị giác, xúc giác) mang lại ấn tượng sâu sắc.
b. Quan niệm, thái độ trước sự thay đổi của con người và mùa xuân
- Có thể hiểu hai dòng thơ là lời của chủ thể trữ tình – nhân vật “khách xa”, cũng có thể hiểu là lời trêu đùa của thiên nhiên mùa xuân (cũng như “gió” đã “trêu tà áo biếc", mùa xuân đang trêu đùa các cô thôn nữ trong “cuộc chơi” của tuổi thanh xuân cùng trang lứa).
- Dù là lời của ai thì hai dòng thơ cũng thể hiện quy luật của tạo hoá, đời người, cũng như búp phải nở thành hoa, trái xanh thành trái chín rồi rơi rụng, lìa cành,... không ai có thể cưỡng lại.
3. Cách đặt nhan đề và sự phù hợp của các yếu tố hình thức trong việc biểu đạt nội dung văn bản
a. Nhan đề
“Mùa xuân chín” là một nhan đề phù hợp với nội dung bài thơ vì gợi được cảnh sắc mùa xuân ở độ viên mãn nhất, căng tràn nhựa sống nhất. Khi đạt đến trạng thái ấy, mùa xuân tươi đẹp cũng đồng thời đang dần trôi qua, không có cái đẹp nào có thể tồn tại vĩnh hằng. Vì vậy, “mùa xuân chín” vừa thể hiện niềm háo hức, rạo rực, say mê của tác giả trước sự quyến rũ của mùa xuân, vừa cho thấy niềm nuối tiếc khôn nguôi của nhà thơ trước quy luật của thời gian, đời người. Hơn nữa, nhan đề ấy có cách kết hợp từ rất độc đáo nên gợi được sự tò mò, thu hút đối với người đọc.
b. Sự phù hợp của các yếu tố hình thức trong việc biểu đạt nội dung của văn bản
Một số yếu tố hình thức | Tác dụng |
Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh | Gợi tả bức tranh mùa xuân tươi sáng, hình ảnh thơ ngây, tràn đầy sức sống của các thiếu nữ; đồng thời thể hiện niềm bâng khuâng, nỗi buồn về quy luật trôi chảy của thời gian, của đời người. |
Cách sử dụng biện pháp tu từ | |
Cách ngắt nhịp, gieo vần |
4. Tổng kết
a. Nội dung
- Bài thơ thể hiện khung cảnh mùa xuân tươi mới, đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nơi nông thôn dân dã của làng quê Việt Nam.
- Thể hiện niềm yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống của thi nhân, gửi gắm niềm yêu thương và hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp, mùa xuân mang vị “chín” của lòng người
b. Nghệ thuật
- Ngôn từ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu.
- Hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc.
- Giọng thơ tự nhiên, thủ thỉ, tâm tình.
=> Giáo án Ngữ văn 9 Chân trời bài 10: Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)