Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 kết nối Bài 5: Văn bản. Xuý Vân giả dại

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 Kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 5: Văn bản. Xuý Vân giả dại. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 Kết nối tri thức.

VĂN BẢN. XUÝ VÂN GIẢ DẠI

( 16 câu)

1.    NHẬN BIẾT ( 5 câu)

Câu 1: Trình bày về tác giả và tác phẩm Xuý Vân giả dại

Trả lời:

a, Tác giả

Tác giả dân gian

b, Tác phẩm

Vở chèo Kim Nham

- Kim Nham là vở chèo cổ nói về người học trò cùng tên. Sau khi kết duyên với Xúy Vân chàng đã lên kinh đô tiếp tục học hành, Xúy Vân ở nhà bị Trần Phương dụ dỗ, hứa hẹn nên đã giả điên để mong thoát khỏi Trần Phương. Chạy chữa không thành, Kim Nham đành để cho vợ được tự do nhưng khi tới tìm Trần Phương, Xúy Vân lại bị hắn ta trở mặt. Từ chỗ giả điên, nàng đã hóa điên thật.

- Vở chèo Kim Nham nêu cao bài học đạo lý khi thể hiện quan hệ gia đình, chồng vợ, đồng thời cũng bộc lộ sự cảm thông với thân phận của người phụ nữ trong xã hội nam quyền xưa.

- Kim Nham hội tụ được những tinh hoa nghệ thuật chèo, vừa giàu tính bi kịch, vừa đầy tiếng cười hài hước, có những lớp, những màn hết sức đặc sắc, gắn liền với tài năng biểu diễn của các nghệ sĩ qua nhiều thời.

- Tích trò Kim Nham có một số dị bản, kể khác nhau ít nhiều về nguồn gốc gia đình Xúy Vân, nguyên cớ chính khiến Xúy Vân giả điên và kết thúc số phận bi kịch của nàng.

Đoạn trích Xúy Vân giả dại

- Là lớp chèo thuộc loại đỉnh cao không chỉ của riêng vở Kim Nham mà còn của cả nền chèo cổ Việt Nam

- Đã có nhiều diễn viên khẳng định tài năng xuất chúng của mình nhờ lớp chèo này như Dịu Hương, Diễm Lộc, Thúy Ngần,...

Câu 2: Nêu bố cục của văn bản và nội dung chính từng phần

Trả lời:

- Phần 1: từ đầu đến “ai biết là ai?”: màn giới thiệu của Xúy Vân với khán giả

- Phần 2: tiếp theo đến “than thân vài câu nhé”: tình cảnh éo le, nỗi đau khổ của Xúy Vân hiện tại và niềm mong ước của nàng về một cuộc sống gia đình hòa hợp, hạnh phúc.

- Phần 3: còn lại: nỗi ân hận, xót xa và hối lỗi, tự trách của Xúy Vân

Câu 3: Xuý Vân giả dại thuộc thể loại gì? Em hãy nêu một vài đặc điểm của thể loại này

Trả lời:

- Tác phẩm thuộc thể loại: chèo

- Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam, mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình.

- Chèo được hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung đã được nhà vua phong chức quan Ưu Bà chuyên truyền dạy nghề múa hát.

- Các vở chèo nổi tiếng như Lưu Bình - Dương Lễ, Quan Âm Thị Kính,...

Câu 4: Tóm tắt văn bản bằng một đoạn văn ngắn

Trả lời:

Văn bản "Xúy Vân giả dại" kể về Xúy Vân giả dại, nàng có khát vọng hạnh phúc chính đáng nhưng không thực hiện được trong chế độ phong kiến gia trưởng. Xúy Vân bước ra sân khấu với những câu hát nửa điên dại, ngô nghê, nửa chân thực tỉnh táo về thân phận dang dở, bẽ bàng. Sau những câu hát xưng danh là tâm sự đau xót về một cuộc đời lạc lõng, cô đơn, vô nghĩa. Đoạn trích tiếp tục những lời độc thoại về nỗi thất vọng trước mâu thuẫn vì ước mơ hạnh phúc tốt đẹp gặp phải thực tế phũ phàng. Màn kịch kết thúc trong tiếng cười điên dại, bất ổn, trớ trêu trong tâm trạng của Xúy Vân. 

Câu 5: Trình bày giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

Trả lời:

a, Giá trị nội dung

- Vở chèo Kim Nham lấy nền tảng đạo lí về quan hệ gia đình, chồng vợ để nói lên sự cảm thông với thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

- Lớp chèo Xúy Vân giả dại đã thể hiện thành công sự mâu thuẫn trong tâm trạng của Xúy Vân, giữa một bên là đạo lí, nghĩa vợ chồng, một bên là khát vọng tình yêu mãnh liệt.

b, Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nội tâm nhân vật sâu sắc

- Tình huống kịch đắt giá 

2.    THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Trình bày cảnh ngộ và tâm trạng của Xúy Vân trong cuộc hôn nhân với Kim Nham

Trả lời:

- Cảnh ngộ:

+ Cuộc hôn nhân không mong muốn, do cha mẹ sắp đặt (ức bởi xuân huyên).

+ Sống trong cảnh cô đơn, lẻ loi, không được như ý (càng chờ càng, đợi càng trưa chuyến đò).

+ Chịu đựng sự gò bó, tù túng (Con cá rô nằm vũng chân trâu/ Để cho năm bảy cần câu châu vào!)

- Tâm trạng:

+ Đau khổ, đắng cay, tấm tức, không thể bày tỏ cùng ai vì làm sao có thể nói về một điều do cha mẹ (xuân huyên) sắp đặt (đau thiết thiệt van).

+ Buông xuôi và phản kháng xen lẫn nhau:

▪         Buông xuôi: Cách sông nên tôi phải lụy đò/ Bởi ông trời tối, phải lụy cô bán hàng

▪         Phản kháng: Chả nên gia thất thì về,/ Ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười.

ð Cảnh ngộ éo le và tâm trạng chán chường, muốn vùng vẫy thoát khỏi những kìm kẹp.

 

Câu 2: Phân tích tình cảm của Xuý Vân đối với Trần Phương và niềm mong ước của Xúy Vân

Trả lời:

- Tình cảm đối với Trần Phương:

+ say đắm, điên cuồng, rồ dại

+ nhớ nhân tình, đêm năm canh tôi thức cả vừa năm

=>  tình yêu thực sự, chân thành, mãnh liệt, thổn thức.

- Niềm mong ước của Xúy Vân: mong chờ hạnh phúc của tình yêu đôi lứa, vợ chồng (Chờ cho bông lúa chín vàng,/ Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.)

=>  Khát vọng hạnh phúc lứa đôi chân chính và tình cảm chân thật, đến mức điên cuồng. Tình cảm với Trần Phương đã cho Xúy Vân thấy được tia hy vọng của hạnh phúc, chính vì vậy mà nàng đã muốn vùng vẫy để thoát khỏi Kim Nham

 

Câu 3: Em hãy phân tích mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm nhân vật Xuý Vân

Trả lời:

- Mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm của Xúy Vân là mâu thuẫn giữa một bên phải giữ đạo vợ chồng, giữ trinh tiết, một bên là tiếng gọi, khát vọng tình yêu.

+ Đối với Kim Nham: Xúy Vân sử dụng lí lẽ để giữ bản thân ở lại với cuộc hôn nhân:

▪         Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng.

Gió trăng thời mặc gió trăng,

Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên

▪         Tôi thương nhân ngãi

+ Đối với Trần Phương: Xúy Vân yêu Trần Phương và thấy khát khao hạnh phúc được đong đầy:

▪         Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,

Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại.

▪         Chờ cho bông lúa chín vàng,

Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.

▪         […], tôi nhớ nhân tình,

Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm.

 

Câu 4: Liệt kê những từ, cụm từ chỉ trạng thái nội tâm của Xuý Vân được bộc lộ qua lời thoại. Trên cơ  sở đó, hãy phân tích nguyên nhân sâu xa thúc đẩy Xuý Vân bày ra cảnh giả dại của mình. 

Trả lời:

Những từ, cụm từ chỉ trạng thái nội tâm của Xuý Vân được bộc lộ qua lời thoại: đau, chờ, đợi, chả nên gia thất thì về, mặc, điên cuồng, rồ dại, đắng cay, ức, thương, nhớ. Qua những từ, cụm từ ấy, có thể thấy Xuý Vân bày ra cảnh giả dại vì mang nỗi bất bình lớn với tình trạng cuộc sống hiện tại, muốn được thực sự sống theo đòi hỏi của trái tim đầy thương yêu, khao khát.

 

Câu 5: Nêu những đoạn lời thoại có hình thức của thể thơ lục bát trong văn bản. So với cấu trúc lục bát “khuôn mẫu”  thể lục bát xuất hiện ở đây có điểm gì khác biệt? Bạn đánh giá thế nào về tác dụng của điểm  khác biệt đó trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật.

Trả lời:

Những đoạn lời thoại có hình thức của thể thơ lục bát:

- Tôi kêu đò, đò nọ không thưa,

Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò.

- Cách con sông nên tôi phải luỵ đò,

[..]

Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên.

- Chờ cho bông lúa chín vàng,

Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.

- Rủ nhau lên núi Thiên Thai,

Thấy hai con quạ đang ăn xoài trên cây.

Ba cô bán mắm trong làng,

Mắm không bán hết, còn quang với thùng...

- Con cá rô nằm vũng chân trâu,

Để cho năm bảy cần câu châu vào!

- Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,

Một đàn các cô con gái lội sông té bèo.

- Ông Bụt kia bẻ cổ con nai,

Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây.

[...]

So với cấu trúc lục bát “khuôn mẫu” thể lục bát xuất hiện ở đây có một số nét khác biệt: số tiếng trong dòng thơ có khi nhiều hơn 6 (với dòng trên) và nhiều hơn 8 (với dòng dưới); bên cạnh nhịp chẵn, nhiều dòng có nhịp lẻ (“Tôi kêu đò/ đò nọ không thưa, Tôi càng chờ/ càng đợi, /càng trưa chuyến đò”; “Cách con sông/ nên tôi phải luỵ đò”;...). Đây chính là hình thức lục bát biến thể. Việc chêm vào nhiều tiếng và biến đổi cách ngắt nhịp như nói trên có tác dụng làm cho lời thơ gần với lời nói hằng ngày, một mặt diễn tả được tâm trạng bấn loạn, rối bời của nhân vật, mặt khác thể hiện được tính bất thường của hoàn cảnh mà nhân vật đang lâm vào. Thêm nữa, việc kéo dài câu thơ còn có tác dụng tạo đủ thời gian cho diễn viên thực hiện các động tác múa kèm theo lời hát.

 

3.    VẬN DỤNG (5 câu)

Câu 1: Qua đoạn xưng danh của Xúy Vân, có thể nhận ra được những đặc điểm gì của sân khấu chèo (cách xưng danh, sự tương tác giữa người xem và người diễn,…)?

Trả lời:

- Hình thức xưng danh, thể hiện nhân vật rất riêng biệt của sân khấu dân gian Việt Nam (bao gồm chèo và tuồng)

- Khán giả bình dân nắm bắt nhanh chóng về loại, đặc điểm và vai trò của nhân vật trên sân khấu

- Không cần bỏ nhiều công để suy đoán về tính cách nhân vật mà tập trung theo dõi nghệ thuật trình diễn (múa, hát) của diễn viên.

- Nếu nhìn bằng con mắt hiện đại: cách tự giới thiệu (cả tốt lẫn xấu trong tính cách) là điều không logic, nhưng

nếu nhìn bằng con mắt của nghệ thuật truyền thống sẽ thấy đây là một quy ước nghệ thuật.

Câu 2: Nêu một số đặc điểm của ngôn ngữ chèo mà em nhận biết được qua đoạn trích (thể thơ quen dùng; chất liệu ca dao, dân ca,…).

Trả lời:

- Ngôn ngữ chèo: lời thoại của nhân vật được thể hiện bằng hình thức của lời nói thường hoặc hình thức của thơ bốn chữ, lục bát, lục bát biến thể mang màu sắc ca dao được hát theo các làn điệu:

+ Bốn chữ: Đau thiết thiệt van,/ Than cùng bà Nguyệt,/ Đánh cho lê liệt,…

+ Lục bát: Gió trăng thời mặc gió trăng,/ Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên; Chờ cho bông lúa chìn vàng,/ Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.

+ Lục bát biến thể: Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,/ Một đàn các cô con gái lội sông té bèo…

Câu 3: Nhận xét khái quát về tính cách của nhân vật Xuý Vân được thể hiện qua lớp chèo Xuý Vân  giả dại. 

Trả lời:

Qua lớp chèo Xuý Vân giả dại, Xuý Vân thể hiện là một phụ nữ có khát vọng hạnh phúc cháy bỏng, không cam chịu sự an bài của số phận, phần nào dám sống là mình, vượt lên phản ứng trái chiều của dư luận.

Câu 4: Phân tích hiện tượng chuyển nghĩa của từ “đò” trong hai dòng thơ sau: "Càng chờ càng đợi,  càng trưa chuyến đò

Trả lời:

Tôi kêu đò, đò nọ không thưa,

Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò.

Từ “đò” nguyên nghĩa chỉ một phương tiện chuyên chở trên sông nước nhưng ở dòng thơ thứ nhất, nó đã được dùng theo nghĩa hoán dụ, chỉ “người lái đò” (vì đò là vật vô tri, không thể nghe được tiếng gọi và cũng không thể cất lời “thưa”). Còn ở dòng thơ thứ hai, “đò” trong cụm từ “càng trưa chuyến đò” đã mang nghĩa ẩn dụ, chỉ tình trạng trễ tràng, lỡ làng hoặc ế ẩm, đáng than thở.

Câu 5: Đọc lại đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi: "Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyện. Để anh  đi gặt, để nàng mang cơm. Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyện." (Xuý Vân giả dại, trích Kim  Nham, Ngữ văn 10, tập một, tr. 129) 

  • a. Xác định dòng tâm trạng của nhân vật được thể hiện trong lời thoại. Dòng tâm trạng này có thuần nhất không? Dựa vào đâu để nhận xét như vậy?
  • b. Phân tích ý nghĩa ẩn dụ của câu:“Con gà rừng ăn lẫn với công”.
  • c. Phân tích khả năng gợi tả, gợi cảm của câu “Bông bông dắt, bông bông díu” được nhắc đến hai lần trong lời thoại.
  • d. Vì sao đoạn lời thoại này trong lớp chèo Xuý Vân giả dại được nhìn nhận như một điệu hát chèo có thể đưa ra trình diễn độc lập?

Trả lời:

a. Dòng tâm trạng: mong ngóng về một hạnh phúc mới xen lẫn vào đó là nỗi ấm ức. Dòng tâm trạng có thuần nhất bởi nhìn vào dòng tâm trạng, ta thấy rằng, ở 3 dòng đầu, thể hiện rõ nét nỗi ấm ức nhưng sau đấy lại bộc bạch ao ước hạnh phúc rồi cuối cùng là nỗi ấm ức quay trở lại khi nhìn về thực tại không như mong đợi. Rõ ràng, đây không phải là dòng tâm trạng thuần nhất vì có sự đan xen, pha trộn, thiếu rành mạch của nhiều cảm giác, cảm xúc khác nhau. Nỗi ấm ức, bất bình của Xúy Vân được láy đi láy lại qua cách biểu đạt trực tiếp trong lời thoại. Trong lời thoại, nỗi ấm ức, bất bình của nhân vật được láy đi láy lại qua cách biểu đạt trực tiếp. “Ức” rất có thể chỉ là một tiếng đệm, tạo tiết tấu cho lời hát, nhưng nhờ hoạt động liên tưởng của người đọc, nó còn có thể được hiểu như một tiếng (từ) thể hiện nỗi bực giận và sự đay nghiến của nhân vật đối với cảnh ngộ riêng. Nỗi niềm ấy đã góp phần lí giải chuyện giả dại của Xúy Vân xuất phát từ nỗi khao khát về cuộc sống hạnh phúc. Và khi bản thân trải qua sự cô đơn, lẻ bóng trong chính cuộc sống hôn nhân khiến cô chán nản, buồn tủi.

b. Ý nghĩa ẩn dụ: chỉ sự lạc lõng, bơ vơ trong một môi trường khác với suy nghĩ, tâm trạng của bản thân: tương tự sự lạc lõng của một con công (đẹp) đơn lẻ giữa bầy gà rừng (tầm thường) hoặc ngược lại, như một con gà rừng giữa bầy công.

c. Phân tích: Qua câu “Bông bông dắt, bông bông díu” một mặt thể hiện sự tươi tắn, vui tươi trước những bông lúa vàng nô đùa, mặt khác thể hiện tâm tình của cô nàng Xúy Vân cũng muốn được hạnh phúc bên tổ ấm của mình. Theo đó, cả câu có thể gợi lên hình ảnh những bông lúa vàng hay những cánh hoa, bông hoa đồng nội vương trên tóc hoặc được cài lên tóc nhân vật. Câu thơ vừa gợi hình vừa gợi cảm. 

d. Vì đoạn lời thoại trên đã thể hiện được gần như tâm tư của Xúy Vân lúc bấy giờ. Đó là cảm xúc ấm ức trước mong ước với thực tại.  Cơ sở của việc nhìn nhận này là đoạn lời thoại đã thâu tóm được tinh thần, đặc điểm của những cảm xúc ấm ức, bất bình có tính phổ biến, không chỉ phù hợp với riêng cảnh ngộ của Xuý Vân mà còn với nhiều người khác (nhất là những người phụ nữ trong xã hội xưa). 

4.    VẬN DỤNG CAO (1 câu)

Câu 1: Em hãy phân tích tác phẩm Xuý Vân giả dại

Trả lời:

Thuộc loại hình sân khấu dân gian, chèo được hình thành và phát triển ở nước ta từ rất sớm. Những vở chèo nổi tiếng nhất có thể kể đến như: Quan âm Thị Kính, Kim Nhan…những vở chèo không chỉ nhằm mục đích giải trí mà thông qua vở chèo các tác giả dân gian đã gửi gắm biết bao quan niệm về nhân sinh. Chèo đối với cuộc sống của con người đã trở nên vô cùng quen thuộc, chẳng những vậy mà nhà văn Nguyễn Bính cũng từng viết:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay… ”

Trong những trích đoạn chèo hay và nổi tiếng nhất có thể kể đến, đó chính là Xúy Vân giả dại. Trích đoạn chèo này thuộc vở chèo Kim Nham, nói về việc Xúy Vân có những dan díu bất chính với tình nhân là Trần Phương khi chồng vắng nhà. Để có thể đến được với Trần Phương, Xúy Vân đã quyết định giả dại để làm lí do có thể li hôn với Kim Nhan. Ở phần mở đầu, Xúy Vân xuất hiện với những tiếng hát và hành động quay cuồng, tâm trạng nửa tỉnh nửa mê, nửa ngây nửa dại. Xúy Vân đã cất tiếng hát than thở với bà Nguyệt về tình duyên của mình, sau đó Xúy Vân đã mượn hình ảnh con đò tình duyên để nói về mình, một người phụ nữ mòn mỏi chờ chồng, hạnh phúc dang dở.

“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò”

Tuy lời hát xuất phát từ trạng thái nửa tỉnh nửa ngây nhưng qua lời hát ấy chúng ta vẫn có thể cảm nhận được tâm trạng đầy đau khổ, day dứt của một cô gái đang lo lắng trước tuổi xuân đang trôi qua, hình ảnh của cô gái ấy như một người lữ khách đứng trên bến đò vắng nhưng chưa thấy bóng dáng con đò.

Ở những câu hát tiếp theo, dưới hình thức của những câu thơ lục bát biến thể, Xúy Vân đã thể hiện được tâm trạng của một người con gái đã có chồng, tự do bị trói buộc, mọi thứ đều phải phụ thuộc vào chồng. Muốn qua sông lần nữa thì phải dứt bỏ tình duyên cũ với chồng:

“Chẳng nên gia thất thì về
Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”

Xúy Vân không phủ định mà thừa nhận tình cảm đổi thay của mình, cô gái ấy luôn khát khao tình yêu và có một niềm tin mãnh liệt vào một tương lai đầy hạnh phúc với tình nhân mới củy mình.

“Gió giăng thì mặc gió giăng
Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”

Hình ảnh Xúy Vân mạnh mẽ tìm đến tình yêu của mình đã từng bị coi là hành vi phá bỏ những giá trị đạo đức phong kiến, phá vỡ đạo tam tòng tứ đức, trở thành một người nổi loạn chẳng quá cũng vì quá khát khao tình yêu và đắm chìm trong tình yêu ấy đến nỗi không thể thoát ra được.

Sau những tâm sự, trước tiếng hỏi của vai diễn cũng như sự hô ứng của tác giả thì nhân vật Xúy Vân mới bắt đầu giới thiệu về mình:

“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xúy Vân
Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân
Chồng học vắng thầy ngày mong mỏi

Khi đã giới thiệu về bản thân mình. Xúy Vân cũng đã mạnh dạn thừa nhận mình đã phụ tấm lòng của Kim Nhan mà say đắm tình nhân trong hiện tại là Trần Phương, dẫu biết là sai trái nhưng tình cảm nào chịu nghe theo sự chi phối của lí trí:

“Phụ Kim Nham say đắm Trần Phương
Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại”

Nhưng cũng có những lúc Xúy Vân chợt bừng tỉnh khỏi cơn mê để nhận thức được cái dại khờ của mình:

“Rồ này ai bán thì mua
Dại này ai thấy không mơ mẩn tình
Lúc thì giả cách làm thinh
Lúc thì giả dại ra hình làm điên”

Trích đoạn Xúy Vân giả dại đã làm nổi bật lên tâm trạng nhiều đau khổ, day dứt của Xúy Vân, một cô gái đa tình mà đành phụ tình, đi theo tình yêu mới. Tuy nhiên nàng cũng không hề hay biết rằng người mà mình yêu say đắm Trần Phương lại là một tên Sở Khanh không hơn không kém.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay