Nội dung chính Ngữ văn 9 cánh diều Bài 2: Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hệ thống kiến thức trọng tâm Bài 2: Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) sách Ngữ văn 9 cánh diều. Với các ý rõ ràng, nội dung mạch lạc, đi thẳng vào vấn đề, hi vọng người đọc sẽ nắm trọn kiến thức trong thời gian rất ngắn. Nội dung chính được tóm tắt ngắn gọn sẽ giúp thầy cô ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh. Bộ tài liệu có file tải về. Mời thầy cô kéo xuống tham khảo.
Xem: => Giáo án ngữ văn 9 cánh diều
BÀI 2.1. VĂN BẢN CẢNH NGÀY XUÂN
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN BẢN
1. Đọc
- Cách đọc: Khi đọc, HS cần nhấn mạnh vào các điển tích, điển cố và chú ý đến phần giải thích nghĩa các từ khó.
- Câu hỏi trong thẻ trích dẫn:
Câu trả lời của tôi |
Sử dụng từ ngữ ước lệ tượng trưng, sự vật hiện tượng đặc trưng cho mùa xuân: con én, cỏ non, cành lê trắng... |
- Hoạt động chính: tảo mộ, đạp thanh. - Hình ảnh: “nô nức yến anh”, “dập dìu tài tử, giai nhân”, “tro tiền giấy bay”, “ngựa xe như nước”, “áo quần như nêm”… |
Cảnh vật buổi sáng được miêu tả với những vẻ đẹp tinh khôi, giàu sức sống, niềm vui, sự rộn ràng, náo nức. Ngược lại, cảnh vật buổi chiều cũng đẹp nhưng lại là vẻ đẹp trầm buồn, nao nao, mất đi cái háo hức tươi vui lúc sáng. Lí do là bởi sự ảnh hưởng của lòng người khi mới bắt đầu ngày lễ hội và khi đã kết thúc. |
2. Tìm hiểu chung về tác phẩm
a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
- Cuộc đời Nguyễn Du gắn với một thời đại lịch sử đầy biến động nên trải nhiều thăng trầm. Ông không chỉ có vốn tri thức uyên bác, vốn sống phong phú, am hiểu sâu sắc về con người mà còn có trái tim mang nặng nỗi thương đời.
- Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm có: ba tập thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục) và một số tác phẩm chữ Nôm (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh, Truyện Kiều).
- Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc. Năm 2013, ông được UNESCO ra nghị quyết vinh danh và kỉ niệm 250 năm ngày sinh của ông.
b. Tác phẩm Truyện Kiều
- Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du và của nền văn học dân tộc. Nguyễn Du đã sử dụng cốt truyện từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) để sáng tạo nên một tác phẩm mới.
- Ông đã sáng tác Truyện Kiều bằng ngôn ngữ, thể loại văn học của dân tộc; với cảm hứng trước “những điều trông thấy” và ngòi bút của một thiên tài.
- Tác phẩm hội tụ những giá trị văn hóa, nghệ thuật của văn học dân tộc và tinh hóa văn học nước ngoài, trong đó, phần sáng tạo của Nguyễn Du và yếu tố quan trọng và quyết định.
c. Đoạn trích Cảnh ngày xuân
Đoạn trích Cảnh ngày xuân nằm ở phần 1 của cốt truyện (gặp gỡ): Nhân tiết Thanh minh, Thuý Kiều cùng hai em du xuân, trước khi gặp Kim Trọng.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Bố cục
- Đoạn trích kể lại việc chị em Thúy Kiều tham gia lễ tảo mộ, hội đạp thanh trong tiết thanh minh của mùa xuân với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
- Bố cục: Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được chia theo 3 phần với nội dung như sau:
+ Phần 1: 4 câu thơ đầu – Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân.
+ Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo – Miêu tả lễ hội diễn ra trong tiết thanh minh.
+ Phần 3: 6 câu thơ cuối – Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau chuyến du xuân
2. Bức tranh thiên nhiên và lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
a. Bức tranh thiên nhiên trong bốn dòng thơ đầu
* Câu thơ: Ngày xuân con én đưa thoi
- Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian:
+ Đó là hình ảnh tả thực những chú chim én bay lượn trên bầu trời ngày xuân. Trên nền trời xanh thoáng đãng ấy, những cánh én từ phương Nam về chao liệng như thoi đưa, cùng nhau múa vũ điệu chào đón mùa xuân của thiên nhiên.
+ Hình ảnh những cánh én gợi cho người đọc hình dung về một bức tranh thiên nhiên với bầu trời cao rộng và một không khí ấm áp của sự đoàn viên, sum vầy. Cánh én bay nhanh và nhiều như thoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian có những bước đi nhanh, vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi.
* Câu thơ: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
- Sử dụng từ “thiều quang” có tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được những tia nắng lấp lánh chiếu rọi
- Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành và tràn đầy sức sống tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát xuống vạn vật.
- Nhắc đến thời điểm mùa xuân vào tháng ba, khoảng thời gian mà vẻ đẹp sắc xuân đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
=> Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian mà còn thể hiện phần nào tâm trạng, cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
* Câu thơ: Cỏ non xanh tận chân trời
- Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc và gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét đặc sắc cho bức tranh xuân:
+ Hình ảnh giúp gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, làm nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời, tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất.
+ Cỏ non và màu xanh của cỏ non có tác dụng trong việc gợi liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, bắt đầu một hành trình sống mới.
+ Sử dụng từ “tận”, Nguyễn Du đã biến không gian xuân trong những câu thơ được mở rộng ra bao la, bát ngát
* Câu thơ: Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
- Sử dụng hình ảnh thơ “cành lê trắng điểm”, tác giả đã thể hiện khả năng tài tình của mình trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá:
+ Trên nền màu xanh non của cỏ cây, xanh trong của trời đất là những bông hoa lê trắng, tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân. Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn.
+ Tác giả sử dụng từ “điểm” thay vì các động từ khác. Điều này giúp gợi sự thanh thoát của những cành lê. Những cành lê tựa như đôi tay của người họa sĩ, chủ động tạo nét chấm phá, điểm thêm nét vào bức tranh cảnh vật nhằm thêm phần sống động, có hồn hơn
+ Sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “trắng” lên trước động từ “điểm”, tác giả muốn nhấn mạnh và màu sắc của cành hoa lê, làm nổi bật màu trắng tinh khôi của hoa lê, màu của sự kết tinh từ tinh hoa của trời đất.
=> Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
Kết luận: Bằng bút pháp chấm phá tài tình, qua bốn câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp mùa xuân hiện lên không hề mang tính ước lệ mà mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ. Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên hoàn hảo, đầy sức sống đang ở ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
b. Bức tranh thiên nhiên trong sáu dòng thơ cuối
- Đối lập với sự nhộn nhịp trong lễ hội mùa xuân, trên đường trở về của hai chị em, mọi chuyển động đều diễn ra nhẹ nhàng.
- Trái với bước đi vội vàng cùng sự trôi chảy nhanh của thời gian ở phần mở đầu đoạn trích, lúc này sự chuyển động của thời gian đã trở nên chậm rãi và nhẹ nhàng. Điều này được cảm nhận rõ nhất qua câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây”.
+ Sau khi ban phát “thiều quang” cho ngày xuân ấm áp, mặt trời đã từ từ khuất bóng sau những đám mây, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống.
+ Sử dụng từ láy “tà tà” đã thành công trong việc gợi tả rõ nét hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn trong nền trời xế chiều. Cho thấy cảnh những ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, không gian từ sáng chuyển dần sang tờ mờ tối.
=> Hình ảnh thơ có tác dụng gợi lên khung cảnh chiều tà tĩnh lặng và có chút buồn
- Sự tĩnh lặng và thanh tĩnh của cảnh vật cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình, cụ thể là hai chị em Kiều. Dường như hai chị em đang tiếc nuối về những phút giây nhộn nhịp, nô nức của buổi du xuân vừa diễn ra.
- Đến những câu thơ cuối bức tranh thiên nhiên, thay vì hiện lên với vẻ cao rộng và khoáng đạt tràn, cảnh sắc đã được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn như hình ảnh “tiểu khê” và chiếc “cầu nho nhỏ” để bộc lộ dòng tâm trạng của con người.
- Tác dụng từ láy trong cảnh ngày xuân:
+ Sử dụng hệ thống từ láy được trải đều trong các câu thơ cuối như “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao” đã giúp tác giả biểu đạt sắc nét cảm xúc trong từng câu thơ:
+ Từ láy “thơ thẩn” có tác dụng trong việc gợi lên tâm trạng tiếc nuối, lưu luyến, pha chút bâng khuâng buồn của hai chị em Kiều qua những bước chân có chút tâm tình.
+ Từ láy “nao nao” giúp gợi lên nét buồn rất khác thường của con người và cảnh vật. Hình ảnh dòng chảy “nao nao”, lững lờ trôi chậm bên chân cầu “nho nhỏ” có sự thống nhất cảm xúc hoàn toàn với bước chân “thơ thẩn” của nhân vật trữ tình. Mặt khác, từ láy “nao nao” cũng mang tính tính chất dự báo, linh cảm không vui cho cuộc gặp gỡ sắp tới của Thúy Kiều.
=> Sáu câu thơ cuối thể hiện mối quan hệ hai chiều qua lại giữa cảnh và tình. Khi hội tan, con người rơi vào trạng thái bâng khuâng, xao xuyến và nhìn cảnh vật bằng trong màu sắc u buồn và ảm đạm.
=> Trong 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã vận dụng khéo léo, xen kẽ bút pháp nghệ thuật độc đáo trong thơ ca trung đại. Nổi bật nhất là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, giúp tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình. Với phép nghệ thuật này, ta thấy cảnh vật vừa như có linh hồn của con người, vừa phảng phất nét u buồn và một vẻ đẹp rất đỗi tao nhã và thanh khiết.
3. Lễ hội trong tiết Thanh Minh
a. Những hoạt động chính diễn ra trong tiết Thanh Minh
- Thời gian: tháng Ba.
- Hoạt động chính: lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
- Ý nghĩa”:
+ Sử dụng nghệ thuật tiểu đối, tác giả tách hai từ “lễ hội” ra thành “lễ” và “hội” để giải thích về hai hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh.
+ “Lễ là tảo mộ” hay “lễ tảo mộ” mà hoạt động mà con cháu đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Lễ tảo mộ là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện sự tri ân của những nam thanh, nữ tú với tổ tiên trong những ngày du xuân.
+ “Hội là đạp thanh” hay “hội đạp thanh” ý muốn miêu tả việc đi chơi xuân ở chốn đồng quê thường phải giẫm lên cỏ xanh. Đây là ngày hội vui nhất của mùa xuân đối với những nam thanh nữ tú để tìm kiếm đối nhân, tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.
=> Có thể hiểu trong câu thơ trên, “lễ” và “hội” diễn ra trong tiết thanh minh: một là đi tảo mộ (lễ) và hai đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội). Tuy là hai hoạt động văn hóa khác biệt nhưng chúng lại có một sự giao hòa độc đáo trong thơ của Nguyễn Du.
b. Con người, sự vật trong lễ hội ngày xuân
* Con người
- Sử dụng hệ thống danh từ: “chị em”, “tài tử”, “giai nhân”, tác giả đã thể hiện sự đông vui, nô nức, tấp nập trong ngày hội xuân – nơi mà tất cả mọi người đều háo hức tham gia
- Sử dụng các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu, tác giả đã gợi tả không khí rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội. Từ già trẻ, gái trai đều chọn cho mình những bộ trang phục đẹp nhất để cùng nhau tham gia và lễ hội mùa xuân. Trước mắt người đọc như hiện lên một bức tranh đầy náo nhiệt với âm thanh của người người, dập dìu, sánh vai cùng nhau đi chơi xuân.
+ Sử dụng hình ảnh so sánh trong câu thơ “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, tác giả đã vẽ lên khung cảnh đông đúc, không khí tưng bừng, náo nhiệt của buổi du xuân diễn ra trong tiết thanh minh
* Sự vật
- Sử dụng tính từ: “gần xa” và từ láy “nô nức” đã góp phần bộc lộ tâm trạng hồ hởi, phấn khởi của người đi hội xuân.
- Sử dụng khéo léo hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần làm nổi bật, tô đậm không khí nhộn nhịp của khung cảnh lễ hội xuân:
+ Hình ảnh giúp gợi lên cảnh tượng về những đoàn người nối đuôi nhau, vừa đi vừa trò chuyện, đông đúc và dập dìu như từng bầy chim yến, chim oanh ríu rít.
+ Phép ẩn dụ còn thể hiện âm thanh của những cuộc trò chuyện, giao lưu tình tứ của những đôi uyên ương trong lễ hội ngày xuân.
- Chỉ bằng hai câu thơ: “Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”, tác giả dường như đã làm sống lại những nét văn hoá xưa của người Việt Nam, đó là tục lệ đốt vàng mã được thể hiện qua hình ảnh “ngổn ngang gò đống” và “tro tiền giấy bay”. Trong đó, trọng tâm của khung cảnh là sự xuất hiện của những nam thanh, nữ tú đang cùng nhau sửa sang, rắc vàng vó, hóa tiền giấy cho những người đã khuất, thực hiện nghi lễ của lễ tảo mộ. Tuy chỉ là nghi thức nhưng những chi tiết như “thoi vàng” và “tiền giấy” đã góp phần tạo ra một bầu không khí ngày xuân thêm phần trang trọng và tôn nghiêm.
- Mặt khác, việc tác giả đề cập tới nghi thức truyền thống đã thể hiện một niềm tự hào, tôn vinh truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc Việt ta. Đó là một lối sống ân nghĩa thủy chung cần được duy trì ngàn đời sau.
=> Qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, tài năng của Nguyễn Du đã được chứng minh. Ông không chỉ là một người có con mắt quan sát tinh tế mà còn có sự am hiểu, tôn trọng sâu sắc đối với những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
4. Tổng kết
a. Nội dung
Nội dung đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên sống động, tuyệt đẹp với khung cảnh lễ hội truyền thống đông vui, náo nhiệt. Qua bức tranh ấy, người đọc còn cảm nhận được thế giới nội tâm phong phú và nhạy cảm của nhân vật trữ tình.
b. Nghệ thuật
- Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân.
- Sử dụng nhuần nhuyễn bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp tác giả lồng ghép được nhiều lớp ý nghĩa trong từng câu thơ.
- Sử dụng biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,… góp phần tạo ra sự sinh động cho bức tranh cảnh vật và sự đồng cảm của người đọc với nhân vật.
=> Giáo án Ngữ văn 9 Cánh diều bài 2: Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)