Câu hỏi tự luận ngữ văn 8 kết nối bài 3: Văn bản 1 - Hịch tướng sĩ

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 8 Kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 3: Văn bản 1 - Hịch tướng sĩ. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 8 Kết nối tri thức.

BÀI 3: LỜI SÔNG NÚI

VĂN BẢN 1: HỊCH TƯỚNG SĨ
(15 câu)

 

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản “Hịch tướng sĩ” (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

- Tác giả: Trần Quốc Tuấn

- Thể loại: Hịch

- Nội dung: Phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đây là một áng văn chính luận xuất sắc, có sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn thống thiết, có sức lôi cuốn mạnh mẽ.

 

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Trần Quốc Tuấn.

Trả lời:

- Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300) tước Hưng Đạo Vương, là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc. 

- Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (năm 1285) và thứ ba (năm 1287 – 1288), ông đều được vua Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều chiến thắng oanh liệt. 

- Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy. 

- Nhân dân tôn ông là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên cả nước.

 

Câu 3: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về thể hịch.

Trả lời:

- Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, có tính chất cổ động, thuyết phục, thường dùng để kêu gọi đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài. Cũng có khi hịch được dùng để hiểu dụ, răn dạy thần dân và người dưới quyền.

- Vốn xưa đó là những bài diễn thuyết quân sự gọi là "thệ". Từ "hịch" xuất hiện lần đầu thời Chiến quốc. Chữ "hịch" Hán văn nếu chiết tự ra thì có nghĩa là bài văn công khai (minh bạch chi văn) khắc vào gỗ để tuyên bố cùng mọi người. Hịch còn gọi là "lộ bố" nghĩa là bản văn để lộ, không phong, để cho mọi người cùng đọc. Đời Lí có bài “Phạt Tống lộ bố văn” của Lí Thường Kiệt ra đời trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075.

- Mục đích của hịch là khích lệ tinh thần, tình cảm. Hịch đòi hỏi phải có kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn hùng hồn đanh thép.

- Thông thường bài hịch kêu gọi đánh giặc có bốn phần chính. 

+ Phần mở đầu có tính cách nêu vấn đề. 

+ Phần thứ hai thường nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách để gây lòng tin tưởng. 

+ Phần thứ ba thường nhận định tình hình để gây lòng căm thù giặc, phân tích phải trái để làm rõ đúng sai. 

+ Phần kết thúc thường đề ra chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh.

 

Câu 4: Trình bày hoàn cảnh ra đời của “Hịch tướng sĩ” và xác định tư tưởng chủ đạo của bài hịch.

Trả lời:

- Bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai (1285). Theo “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” (xuất bản năm 1987) thì bài hịch này được công bố vào tháng 09/1284 tại cuộc duyệt binh ở Đông Thăng Long. Trong ba cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên thời Trần thì cuộc kháng chiến lần hai là gay go, quyết liệt nhất. Giặc cậy thế mạnh ngang ngược, hống hách. Ta sôi sục căm thù quyết tâm chiến đấu. Nhưng trong hàng ngũ tướng sĩ cũng có người dao động, có tư tưởng cầu hoà. Để cuộc chiến đấu giành thắng lợi, điều quan trọng là phải đánh bạt những tư tưởng dao động, bàng quan, phải giành thế áp đảo cho tư tưởng quyết chiến quyết thắng. 

Vì vậy tư tưởng chủ đạo của bài “Hịch tướng sĩ” là nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Đây chính là thước đo cao nhất, tập trung nhất tinh thần yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

 

Câu 5: Bài hịch có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Trả lời:

Bài hịch có thể chia làm 4 đoạn: 

– Đoạn 1 (từ đầu đến "còn lưu tiếng tốt"): Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.

– Đoạn 2 (từ "Huống chi" đến "cũng cam lòng"): Lột tả sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.

– Đoạn 3 (từ "Các ngươi" đến "không muốn vui chơi phỏng có được không?"): Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai. Đoạn này có thể chia thành hai đoạn nhỏ:

+ Từ "Các ngươi" đến "muốn vui chơi phỏng có được không?": Nêu mối ân tình giữa chủ và tướng, phê phán những biểu hiện sai trong hàng ngũ tướng sĩ.

+ Từ "Nay ta bảo thật" đến "không muốn vui chơi phỏng có được không?": Khẳng định những hành động đúng nên làm để tướng sĩ thấy rõ điều hay, lẽ phải.

– Đoạn 4 (đoạn còn lại): Nêu nhiệm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu.

 

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được tác giả lột tả như thế nào?

Trả lời:

– Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn đạt bằng những hình ảnh ẩn dụ:

+ Kẻ thù tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. 

+ Kẻ thù ngang ngược: đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ. 

+ Những hình tượng ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Trần Quốc Tuấn. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan "lưỡi cú diều" - "sỉ mắng triều đình", "thân dê chó" – "bắt nạt tể phụ", Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. 

– Có thể so sánh với thực tế lịch sử: Năm 1277, Sài Xuân đi sứ, buộc ta lên tận biên giới đón rước; năm 1281, Sài Xuân lại sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạc cả đầu; vua sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra đón tiếp, Xuân nằm khểnh không dậy. So sánh với thực tế ấy sẽ thấy tác dụng của lời hịch như lửa đổ thêm dầu.

 

Câu 2: Lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua thái độ, hành động như thế nào? Vị chủ tướng tự nói lên nỗi lòng của mình sẽ có tác động ra sao đối với tướng sĩ?

Trả lời:

– Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn được thể hiện cụ thể: quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột; thể hiện qua thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả được thù, sẵn sàng hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. 

– Bao nhiêu tâm huyết, bút lực của Trần Quốc Tuấn dồn vào đoạn: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng". Mỗi chữ mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim qua ngòi bút lên trang giấy. Câu văn chính luận mà đã khắc hoạ thật sinh động hình tượng người anh hùng yêu nước: đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột, mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mà coi thường xương tan, thịt nát. 

– Khi tự bày tỏ khúc nhôi gan ruột, chính Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ.

 

Câu 3: Mối quan hệ ân tình giữa Trần Quốc Tuấn với tướng sĩ là mối quan hệ theo đạo thần chủ hay quan hệ bình đẳng của những người cùng cảnh ngộ? Mối quan hệ ân tình ấy đã khích lệ điều gì ở tướng sĩ?

Trả lời:

– Mối ân tình giữa Trần Quốc Tuấn và tướng sĩ dựa trên hai quan hệ: quan hệ chủ tướng và quan hệ cùng cảnh ngộ. 

+ Quan hệ chủ tướng để khích lệ tinh thần trung quân ái quốc.

+ Quan hệ cùng cảnh ngộ để khích lệ lòng ân nghĩa thuỷ chung của những người chung hoàn cảnh "lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Nêu mối ân tình giữa mình và tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với đạo vua tôi cũng như đối với tình cốt nhục.

 

Câu 4: Hãy phân tích nghệ thuật lập luận ở đoạn từ “Nay ta chọn binh pháp … để các người biết bụng ta”.

Trả lời:

- Để giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, phần cuối bài hịch, một lần nữa Trần Quốc Tuấn vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính và tà, cũng có nghĩa là hai con đường sống và chết để thuyết phục tướng sĩ. 

- Tác giả biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. Chính thái độ dứt khoát này đã có tác dụng thanh toán những thái độ trù trừ trong hàng ngũ tướng sĩ, động viên những người còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết chiến quyết thắng. 

 Đoạn cuối bài hịch có giá trị động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

 

Câu 5: Hãy khái quát nghệ thuật lập luận trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ”.

Trả lời:

- Nghệ thuật lập luận của Hịch tướng sĩ là khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng. Khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc đến lòng căm thù giặc, tinh thần trung quân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục... để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. 

- Có thể thấy được cách triển khai lập luận của bài hịch qua một lược đồ kết cấu:

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Chỉ ra đoạn văn phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho họ thấy những thái độ, hành động đúng nên theo, cần làm. Phân tích nghệ thuật lập luận đặc sắc trong đoạn văn đó.

Trả lời:

– Đoạn văn này từ “Nay các ngươi nhìn chủ nhục … không muốn vui chơi phỏng có được không?”.

– Giọng văn trong đoạn này vừa là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền, vừa là lời của người cùng cảnh ngộ. Chính vì vậy, cách nói có khi nghiêm khắc mang tính chất sỉ mắng, răn đe, có khi lại chân thành, tình cảm mang tính chất bày tỏ thiệt hơn.

– Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh của đất nước. 

+ Thái độ bàng quan không chỉ là tội thờ ơ nông cạn mà còn là vong ân bội nghĩa trước mối ân tình của chủ tướng, sự ham chơi hưởng lạc đâu chỉ là vấn đề nhân cách mà còn là sự vô trách nhiệm đến táng tận lương tâm khi vận mệnh đất nước đang nghìn cân treo sợi tóc. 

+ Trần Quốc Tuấn chỉ rõ những việc làm sai tưởng như nhỏ nhặt: vui chọi gà, cờ bạc, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... mà hậu quả thì tai hại khôn lường : thái ấp, bổng lộc không còn; gia quyến, vợ con khốn cùng, tan nát; xã tắc, tổ tông bị giày xéo; thanh danh bị ô nhục; chủ và tướng, riêng và chung.... tất cả đều "đau xót biết chừng nào".

– Có khi tác giả dùng cách nói thẳng, gần như sỉ mắng: "không biết lo", "không biết thẹn", "không biết tức", "không biết căm". Có khi tác giả dùng cách nói mỉa mai, chế giễu: "cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc", "mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh", "chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết", "tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai". Điều đơn giản ấy "trẻ con cũng biết được, mà các tướng lại hình như không biết... làm cho họ tức khí, muốn mau chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng việc làm thiết thực" (Trần Đình Sử).

– Cùng với việc phê phán thái độ, hành động sai của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những việc đúng nên làm. Đó là nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo "tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ". Những hành động này đều xuất phát từ mục đích quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

– Để tác động vào nhận thức, tác giả dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh tương phản và cách điệp từ điệp ý tăng tiến.

+ Trần Quốc Tuấn so sánh giữa hai viễn cảnh, đầu hàng thất bại thì mất tất cả, chiến đấu thắng lợi thì được cả chung và riêng. Từ lời văn dịch khá sát, có thể thấy khi nêu viễn cảnh đầu hàng thất bại, Trần Quốc Tuấn sử dụng những từ mang tính chất phủ định: "không còn", "cũng mất", "bị tan", "cũng khốn". Còn khi nêu viễn cảnh chiến đấu thắng lợi, tác giả dùng những từ mang tính chất khẳng định: "mãi mãi vững bền", "đời đời hưởng thụ", "không bị mai một", "sử sách lưu thơm".

+ Điều đáng lưu ý là trong khi sử dụng phương pháp so sánh tương phản, người viết rất hiểu quy luật nhận thức. Cách điệp ngữ, điệp ý tăng tiến có tác dụng nêu bật vấn đề từ nhạt đến đậm, từ nông đến sâu. Cứ từng bước, từng bước, tác giả đưa người đọc thấy rõ đúng sai, nhận ra điều phải trái.

 

Câu 2: Phân tích lòng yêu nước, căm thù giặc của tác giả được thể hiện trong bài “Hịch tướng sĩ”.

Trả lời:

- Một trong những biểu hiện của tinh thần yêu nước trong Hịch tướng sĩ là lòng căm thù giặc sâu sắc. Tác giả đã lột tả tội ác và sự ngang ngược của giặc để gây lòng căm thù, lòng tự trọng, tự tôn dân tộc ở các tướng sĩ. Những hình tượng ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan "lưỡi cú diều" – "sỉ mắng triều đình", "thân dê chó" - "bắt nạt tể phụ", Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm.

- Nêu cao lòng căm thù giặc, lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, mục đích là khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất. Không phải ngẫu nhiên mà bao nhiêu tâm huyết, bút lực của Trần Quốc Tuấn lại dồn vào đoạn: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng". Hãy so sánh đoạn hịch trên với đoạn thư của Giáo hoàng La Mã Gơ-rê-goa IX – đoạn thư có ý nghĩa như lời hịch hiệu triệu tổ chức Thập tự quân chống giặc Mông – Nguyên: "Nhiều việc khiến ta lo lắng [...]. Nhưng ta nguyện quên hết những lo âu đó mà chú tâm đến cái tại hoạ Tác-ta, sợ rằng hiện nay uy danh của đạo Cơ đốc sẽ bị bọn Tác-ta tiêu diệt mất. Nghĩ đến đó là ta xương nát tuỷ khô, thân gầy sức kiệt, đau xót vô cùng khiến ta không biết làm gì đây". Những hình tượng "tới bữa quên ăn", "nửa đêm vỗ gối", "ruột đau như cắt", "nước mắt đầm đìa" trong bài hịch cũng như những hình tượng "xương nát tuy khô", "thân gầy sức kiệt" trong đoạn thư đều có giá trị khắc hoạ lòng căm thù cao độ, quyết không đội trời chung cùng lũ giặc. Thế nhưng với Giáo hoàng Gơ-rê-goa IX, "nỗi đau xót vô cùng" càng "khiến ta không biết làm gì đây", còn với Trần Quốc Tuấn thì "chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Cùng căm giận trào sôi mà một bên thì xót xa, bất lực còn một bên thì mài sắc thêm ý chí quyết tâm giết giặc. Chính vì vậy lời văn trong bức thư thống thiết mà bi thương còn lời văn trong bài hịch thì kiên cường và bi tráng. Căm thù phải diệt giặc, yêu nước phải chiến đấu, đó mới là mục đích cao cả mà tác giả bài hịch hướng tới.

 

Câu 3: Hãy vẽ sơ đồ tư duy hoặc một hình thức tương tự thể hiện hệ thống lập luận trong văn bản.

Trả lời:

Dưới đây là hệ thống lập luận tham khảo để vẽ.

- Luận điểm 1: Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ nổi danh nhằm khích lệ tình thần lập công vì nước.

+ Lí lẽ 1: Đời nào cũng có các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước. Những con người này không theo thói nữ nhi thường tình. Dẫn chứng: Công lao của Kỉ Tín, Do Vu, Thân Khoái, Dự Nhượng,…

+ Lí lẽ 2: Những trung thần nghĩa sĩ gần đây. Dẫn chứng: Công trạng của Vương Công Kiên, Xích Tu Tư.

- Luận điểm 2: Sự tàn bạo của quân giặc.

+ Lí lẽ 1: Quân giặc như hổ đói, làm những việc bất nhân, bất nghĩa. Dẫn chứng: những việc làm tham lam, độc ác, coi thường của quân giặc.

+ Lí lẽ 2: Cảm xúc dâng trào của tác giả.

- Luận điểm 3: Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai.

+ Lí lẽ 1: Sự đối đãi của Trần Quốc Tuấn với binh lính không thua gì những trung thần nghĩa sĩ đã nói ở trên. Dẫn chứng: Những hành động thể hiện sự đối đãi hết mực của ông.

+ Lí lẽ 2: Lập luận chỉ ra những việc làm sai trái của một bộ phận binh tướng, sự sai trái đó có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Dẫn chứng: ông liệt kê ra những việc làm không đúng đó và dùng cách lập luận nhân – quả để chứng minh.

+ Lí lẽ 3: Lập luận chỉ ra những việc cần làm của bộ phận binh tướng đó, như thế mới giữ được đất nước. Dẫn chứng: (Ở đây hãy chú ý đến sự hô ứng với phần lí lẽ 2)

- Luận điểm 4: Nêu nhiệm vụ cấp bách và khích lệ tinh thần chiến đấu.

+ Lí lẽ: Binh tướng cần phải chuyên tập “Binh thư yếu lược” nếu không sẽ là trái lời, là kẻ nghịch thù. Tác giả khẳng định nếu không biết rửa nhục, trừ hung thì sẽ chắc chắn sẽ đại bại.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Nêu những đặc điểm cơ bản của thể hịch. Lấy dẫn chứng từ “Hịch tướng sĩ” để làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản đó.

Trả lời:

Đặc điểm của thể hịch

Dẫn chứng từ Hịch tướng sĩ

- Chức năng chủ yếu của hịch là cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống kẻ thù.

- Khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

- Về kết cấu, thông thường bài hịch gồm bốn phần chính. Tất cả các phần đều hướng tới tư tưởng chủ đạo của tác phẩm.

- Kết cấu bốn phần, các phần đều hướng tới tư tưởng chủ đạo: nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng.

– Hịch thời xưa thường được viết theo lối văn biền ngẫu. Cũng có khi hịch được viết bằng văn xuôi, có khi sử dụng phối hợp các thể văn khác nhau. Dù sử dụng thể văn nào thì lời hịch cũng trang trọng, hùng hồn.

- Hịch tướng sĩ có sự đan xen tản văn (văn xuôi) với biền văn: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”,…

- Lập luận đanh thép, hùng hồn, thường kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn, giữa tư duy lô-gíc và tư duy hình tượng, sử dụng linh hoạt cách lập luận tương đồng và lập luận tương phản, khẳng định hoặc phủ định.

– Kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn, giữa tư duy lô-gíc và tư duy hình tượng (đoạn tố cáo tội ác kẻ thù), những hình tượng trong sự đối lập, tương phản (đoạn phê phán thái độ bàng quan, hưởng lạc của tướng sĩ,...)

 

Câu 2: Nêu những thành công nghệ thuật chủ yếu của “Hịch tướng sĩ”.

Trả lời:

Hịch tướng sĩ thể hiện một tài nghệ viết văn chính luận bậc thầy, nổi bật là những thành công nghệ thuật chủ yếu:

– Trong cách lập luận của tác giả, có sự kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Để tăng sức thuyết phục, người viết thường lấy dẫn chứng từ thực tế. Tố cáo tội ác quân Nguyên – Mông để khích lệ lòng căm thù giặc cũng như nỗi nhục mất nước ở tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã lột tả hành động ngang ngược của kẻ thù bằng những hành động thực tế: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, đi lại nghênh ngang ngoài đường, sỉ mắng triều đình,...

- Để thuyết phục mọi người thấy rõ đúng sai bằng lí lẽ, nhận thức, Trần Quốc Tuấn nêu lên mối quan hệ tất yếu giữa nguyên nhân và kết quả. Tác giả sử dụng tài tình các quan hệ từ. Đầu câu nguyên nhân là các quan hệ từ nêu giả thiết "nếu", "hoặc", trong câu chỉ kết quả là các từ ngữ khẳng định "thì", "chẳng những", "mà". Sự hô ứng giữa các từ chỉ quan hệ có tác dụng làm nổi bật nguyên nhân của việc làm sai trái nhất định sẽ dẫn đến hậu quả tai hại.

- Cũng để thuyết phục mọi người nhận rõ phải trái, đúng sai, tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh đối lập. Đối lập ý trong câu "Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến nguy sứ mà không biết căm". Những hình tượng cũng được đặt trong thế tương phản: cựa gà trống/ áo giáp; mẹo cờ bạc / mưu lược nhà binh.

- Phương pháp tương phản được sử dụng với phương pháp so sánh. So sánh giữa ta và địch, ta thì nghĩa tình sâu nặng, địch thì ngang ngược, tàn bạo. So sánh giữa hai viễn cảnh, đầu hàng thất bại thì mất tất cả, chiến đấu thắng lợi thì được cả chung và riêng. Từ lời văn dịch khá sát có thể thấy khi nêu viễn cảnh đầu hàng thất bại, Trần Quốc Tuấn sử dụng những từ ngữ mang tính chất phủ định: "không còn", "cũng mất", "bị tan", "cũng khốn". Khi nêu viễn cảnh chiến đấu thắng lợi, tác giả dùng những từ ngữ mang tính chất khẳng định: "mãi mãi vững bền", "đời đời hưởng thụ", "không bị mai một", "sử sách lưu thơm".

– Điều đáng lưu ý là trong khi sử dụng phương pháp so sánh tương phản, người viết rất hiểu quy luật nhận thức. Các điệp từ, điệp ý tăng tiến có tác dụng nêu bật vấn đề từ nhạt đến đậm, từ nông đến sâu. Cứ từng bước, từng bước, tác giả đưa người đọc thấy rõ đúng sai, nhận ra đường phải trái.

 Hịch tướng sĩ có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương. Nội dung tư tưởng được diễn đạt bằng những hình tượng thật gợi cảm, dễ hiểu. Những hình tượng ẩn dụ "lưỡi cú diều", "thân dê chó" để chỉ sứ Nguyên đã nói lên lòng căm thù và sự khinh bỉ giặc của tác giả. Những hình tượng "người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ", "bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai" đã truyền tới tướng sĩ tinh thần hào hứng giết giặc. Chính nhờ sự kết hợp sâu sắc, hài hoà giữa lí luận sắc bén và nhiệt tâm yêu ghét thiết tha, giữa tư duy lô-gíc và tư duy hình tượng mà bài hịch đã tác động mạnh mẽ cả lí trí và tình cảm người đọc, đưa họ từ nhận thức đến hành động một cách tự nhiên, hợp lí.



=> Giáo án dạy thêm văn 8 kết nối bài 3: Hịch tướng sĩ

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 8 kết nối tri thức - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay