Câu hỏi tự luận ngữ văn 8 kết nối bài 6: Văn bản 3 - Bếp lửa
Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 8 Kết nối tri thức. Câu hỏi và bài tập tự luận bài 6: Văn bản 3 - Bếp lửa. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 8 Kết nối tri thức.
Xem: => Giáo án ngữ văn 8 kết nối tri thức
BÀI 6: CHÂN DUNG CUỘC SỐNGVĂN BẢN 3: BẾP LỬA
(11 câu)1. NHẬN BIẾT (4 câu)
(11 câu)
1. NHẬN BIẾT (4 câu)
Câu 1: Hãy trình bày hiểu biết của em về về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa (hoàn cảnh ra đời, thể loại, nội dung,......).
Trả lời:
- Tác giả: Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi nhưng bài thơ đầu tiên được công bố là bài Qua Trường Sa viết năm 1961. Ông đã thể hiện nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới.
- Tác phẩm:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
- Thể loại: thơ tự do
- Nội dung: qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.
Câu 2: Bài thơ là lời của nhân vật nào nói với nhân vật nào, nói với ai và nói về việc gì? Nêu mạch cảm xúc của bài thơ?
Trả lời:
- Bài thơ là lời của người cháu nói với bà, nói về kỉ niệm tuổi thơ bên bà và những suy ngẫm về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa.
- Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, bài thơ giống như lời tâm sự của người cháu hiếu thảo gửi cho người bà. Bắt đầu ngọn nguồn cảm xúc từ hình ảnh bếp lửa. Từ đó gợi lại kỉ niệm tuổi thơ được bà chăm sóc, nuôi nâng. Từ những kỉ niệm người cháu thấu hiểu, suy ngẫm về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị và cao quý. Mạch cảm xúc thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm tới suy ngẫm.
Câu 3: Trong những dòng hồi tưởng về tuổi thơ của người cháu những kỉ niệm nào về tình bà cháu được gợi lại?
Trả lời:
- Tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằm từ năm lên bốn tuổi đó là những năm tháng chiến tranh gian khổ ác liệt: “đói mòn đói mỏi”.
+ Cái đói ám ảnh tâm trí đứa trẻ, nhà thơ đã cho ta thấy một quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn với thân phận người dân mất nước.
+ Những hình ảnh đau thương của dân tộc gây ấn tượng mạnh, sâu đậm với tâm hồn nhà thơ, ấn tượng về khói bếp “hun nhèm mắt”.
- Tuổi thơ có gian khổ của những ngày giặc ngoại xâm gây tội ác.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
- Dòng hồi tưởng của đứa cháu gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú, âm thanh quen thuộc nơi đồng quê mỗi dịp hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người xa xứ.
+ Với 11 câu thơ, tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần, khi thảng thốt, khi khắc khoải, lúc lại mơ hồ từ những cánh đồng xa.
+ Không gian mênh mông, bao la, buồn tới lạnh lùng. Trong từng cung bậc của tiếng tu hú, tình cảm, nỗi nhớ của người cháu càng trở nên da diết, mạnh mẽ hơn.
→ Tác giả lựa chọn những hình ảnh, âm thanh tiêu biểu nhắc lại những ấn tượng khó phai về tuổi thơ của chính mình.
Câu 4: Xác định bố cục của bài thơ
Trả lời:
Phần 1 (ba dòng đầu): Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.
Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.
Phần 3 (hai khổ thơ tiếp theo): Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
Phần 4 (khổ cuối): Nỗi nhớ về bà.
2. THÔNG HIỂU (3 câu)
Câu 1: Vì sao đã bao lâu rồi mùi khói của bếp lửa khiến người cháu có cảm giác “Nghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay”?
Trả lời:
- Đứa cháu sau bao năm xa cách với bếp lửa và mùi khói nhưng vẫn mang cảm giác “Nghĩ lại tới giờ sống mũi còn cay”:
+ Người cháu luôn xúc động, bồi hồi mỗi khi nghĩ về những năm tháng khốn khó của tuổi thơ.
+ Cháu cảm thấy kỉ niệm sống dậy, người cháu thương nhớ bà và tình bà cháu vẫn vẹn nguyên.
→ Đây là dòng cảm xúc chân thật và xúc động của đứa cháu về bà và về tuổi thơ của mình.
Câu 2: Ghi cảm nhận ngắn gọn cảm nhận của em về câu thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Trả lời:
Câu thơ: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa gợi lên hình ảnh bếp lửa và tình bà cháu trào dâng một cảm xúc mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”.
+ Cụm từ “biết mấy nắng mưa” là những vất vả, trắc trở bà phải vượt qua để nuôi đứa cháu trưởng thành. Người bà âm thầm, chịu đựng những vất vả “mưa nắng ở đời để nuôi dạy cháu.
+ Động từ “thương” gợi lên tình cảm, sự thấu hiểu và biết ơn của cháu đối với những vất vả bà đã trải qua để nuôi mình.
Câu 3: Bài thơ “Bếp lửa” chứa đựng một ý nghĩa triết lý thầm kín mà sâu sắc, đó là triết lý gì?
Trả lời:
Bài thơ chứa đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
3. VẬN DỤNG (3 câu)
Câu 1: Phân tích bài thơ Bếp lửa
Trả lời:
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Thi sĩ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn qúit không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Câu 2: Cảm nhận về tình bà cháu trong bài “Bếp lửa”
Trả lời:
Bằng Việt viết bài thơ “Bếp lửa” khi ông đang công tác ở nước ngoài. Hình ảnh người cháu hay cũng chính là hóa thân của nhà thơ vào nhân vật trữ tình suy tưởng về kỉ niệm xã xưa về hình ảnh bếp lửa quê hương và người bà hiền hậu, vất vả, gian lao. Tình cảm ấy được tái hiện thiết tha và cảm động làm xúc động lòng người.
Hình ảnh bếp lửa trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Xuất phát từ nỗi nhớ ấy, tất cả những hình ảnh, ngôn từ hiện lên qua dòng hoài niệm. Trong kí ức đó, cuộc đời của bà thật nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình, vần thơ chứa đựng bao nhiêu nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.
Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi tay già nua gầy guộc, mà bằng tất cả tấm lòng đôn hậu luôn “ấp iu nồng đượm” của bà đối với cháu.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Điệp từ “nhóm” được lặp lại 4 lần, đan kết với những chi tiết rất thực và gần gũi thân quen với mỗi con người, với mọi gia đình chúng ta. Vị ngọt bùi của khoai sắn, hương vị ngọt ngào của nồi xôi gạo mới… đều do bàn tay tần tảo của bà “nhóm” lên. Bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu bao “niềm yêu thương”, bao ước mơ, hoài bão và hi vọng. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà “nhóm” suốt mấy chục năm trời.
Nếu trước đây, đó là ngọn lửa hồng được nhóm lên niềm tin trong những ngày gian khổ khó khăn vì giặc giã, đói kém thì bây giờ “ngọn lửa” ấy còn “nhóm” lên trong tâm hồn tác giả bao nhiêu vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa …” ấy là cái bếp có thật, ngọn lửa, ánh sáng và hơi ấm có thật. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho người cháu tinh ruột thịt nồng đượm. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm, quê hương. Cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, khơi dậy và bồi đắp cho tác giả về tâm hồn, nhân cách sống.
Âm điệu trong đoạn thơ này dào dạt như sóng trào dâng, lan tỏa như lửa ấm. Có lẽ cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ. Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Trong kí ức của đứa cháu, hình ảnh người bà phảng phất màu sắc cổ tích. Nghĩ về bếp lửa, nghĩ về bà, nhà thơ thốt lên ngợi ca. cảm xúc dồn nén bỗng ùa ra, trào lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
Có thể nói, câu thơ: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” thật đặc biệt. Chỉ tám chữ mà chứa đựng bao tình cảm, cảm xúc. Hình ảnh bà và bốp lửa hiện lên thật vĩ đại “thiêng liêng” mà cũng thật bình dị, gần gũi. Dấu gạch nối ở giữa là sự “im lặng giữa các từ”, là một dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ không thể diễn tả hết bằng ngôn từ, dẫu là những ngôn từ rất cô đúc của thơ ca.
Bốn câu thơ cuối tiếp tục thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa trẻ bé bỏng nay đã đi xa. Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp, đã “có ngọn khói trăm tàu”, đá “cố ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình yêu thương. Giọng thơ trở nên thắm thiết, ngọt ngào:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Không gian và thời gian xa cách, dù cuộc đời có đổi thay, cuộc sống vật chất có đầy đủ hơn nhưng tình thương nhớ bà thiết tha mãnh liệt. Tinh cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ và dấu lặng đã khép lại bài thơ thật khéo, thật hay có sức ám ảnh day dứt trong tâm trí độc giá. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho đứa cháu phương xa.
Với những câu thơ đầy cảm xúc, Bằng Việt đã dựng lên bức chân dung người bà bình dị, thầm lặng mà ẩn chứa một trái tim đầy nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những luồng sáng hắt ra từ ngọn lửa ếm nóng làm thâm thìa tâm can người đọc.
Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người, có những ngày tháng, những kỷ niệm và con người không thể nào quên. Bằng Việt đã kể cho ta kí ức đẹp về người bà mà ông yêu quý, kính trọng với giọng điệu tâm tình sâu lắng, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. “Bếp lửa” chính là món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho độc giả chúng ta. Nó nhắc nhở tuổi trẻ chúng ta về tình cảm thủy chung với gia đình, quê hương, với những gì đã nhen nhóm, nuôi dưỡng tâm hồn ta trong suốt cuộc đời.
Từ những tình cảm thiết tha và cảm động của người cháu khi nghĩ về nỗi vất vả, gian lao của người bà, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Câu 3: Phân tích hình ảnh người bà trong bài “Bếp lửa”
Trả lời:
*Mở bài
- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Qua việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã bày tỏ thái độ kính yêu và biết ơn vô hạn đối với người bà của mình. Đó là người bà tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.
*Thân bài
Khái quát:
“Bếp lửa” là bài thơ thành công viết về tình bà cháu. Trên đất nước bạn xa xôi, nhà thơ bất chợt bắt gặp hình ảnh bếp lửa. Đó là bếp lửa thật nhưng cũng có thể là bếp lửa hiện lên trong trí tưởng tượng. Nghĩ đến bếp lửa, nhà thơ nghĩ về bà.
Phân tích
Luận điểm 1: Bà là người chịu thương chịu khó, tần tảo hi sinh
- Tuy giờ đây được sống trong điều kiện vật chất đầy đủ với tiện nghi hiện đại, nhưng mỗi lần nhớ về bếp lửa, cháu lại nhớ về bà - người bà với cuộc đời biết bao vất vả, lam lũ.
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Cụm từ "biết mấy nắng mưa" diễn tả vòng tuần hoàn khép kín của thời gian. Tình cảm mà cháu dành cho bà vượt qua thời gian, qua năm tháng. Hình ảnh "nắng mưa" là ẩn dụ đặc sắc cho cuộc đời lận đận lắm đắng cay, cơ cực của bà.
- Kí ức còn đưa nhà thơ trở về với nạn đói rùng rợn năm 1945. Cái đói chỉ là cái cớ để tác giả gợi nhớ về một tuổi thơ nhiều đắng cay cơ cực, thiếu thốn về vật chất nhưng không thiếu thốn nghĩa tình. Vượt lên trên gian khổ, thiếu thốn, vượt lên trên cái "đói mòn đói mỏi", với sự chịu thương chịu khó, tần tảo lam lũ, bà đã cùng mọi người vượt qua những năm tháng cơ cực ấy.
- Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
+ Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh người bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.
* Luận điểm 2: Bà là người phụ nữ nông thôn thuần hậu nhưng có bản lĩnh vững vàng, là chỗ dựa tinh thần cho con cháu.
- Tuy chỉ là một người phụ nữ nông thôn thuần phác, thật thà nhưng ẩn đằng sau đó là sự kiên cường, bản lĩnh vững vàng, là sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Bà đã giúp mọi người trong gia đình vượt qua nạn đói 1945 để đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại cháu vẫn thấy “sống mũi còn cay”. Nhớ về bà, cháu nhớ về những năm mà thực dân Pháp chiếm đóng. Hiện thực đau thương như được tái hiện lên qua từng câu chữ:
Năm giặc đốt nhà cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
- Trong gian khổ khó khăn, bà vẫn không gục ngã. Bà vẫn "vững lòng" dặn cháu:
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên
- Qua lời bà dặn cháu ta thấy được tâm hồn thật đẹp. Bà là người lo lắng, yêu thương con cháu, nhân hậu và giàu đức hi sinh. Bà muốn con được yên tâm công tác nên đã một mình vượt qua tất cả những khó khăn nơi quê nhà.
- Như vậy ta thấy rằng, dẫu chiến tranh tàn phá, đau khổ chồng chất cũng không thể thay đổi ý chí, niềm tin của bà. Bà là hiện thân đầy đủ nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Bà chính là điểm tựa, chỗ dựa tinh thần cho con cháu:
Rồi sớm chiều bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
- Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa - ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin bất diệt. Bởi đó là ngọn lửa - trái tim, tình cảm và tâm hồn bà. Bà đã truyền cho cháu nghị lực, niềm tin một cách tự nhiên như người truyền lửa cho thế hệ sau. Một ngọn lửa thổi bùng lên mơ ước, khát vọng về ngày mới thanh bình.
* Luận điểm 3: Bà là người yêu thương, chăm sóc và dạy cháu lên người. Bà đã nhóm lên trong cháu tình yêu thương, mơ ước và khát vọng về tương lai
- Trong những năm đói khổ tuổi thơ của tác giả vẫn luôn tươi sáng bởi bên nhà thơ luôn có bà. Nhà thơ luôn nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc của bà. Đó là thời gian:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
- Bố mẹ đi công tác, cháu sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chăm sóc của bà. Bà đã thay con nuôi cháu khôn lớn trưởng thành..
- Cấu trúc song hành góp phần khẳng định vai trò của bà với cuộc đời cháu. Đồng thời còn nói lên tình yêu thương vô bờ mà bà đã dành cho đứa cháu bé bỏng. Không chỉ chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ cháu khôn lớn trưởng thành mà bà còn là người nâng đỡ, chắp cánh ước mơ cho cháu. Nếu cơm gạo của bà nuôi lớn cháu về thể xác thì tình yêu thương của bà nuôi lớn cháu về tinh thần, vể ý chí, nghị lực niềm tin. Để rồi, mỗi khi nhớ về bà, cháu lại nhớ về hình ảnh:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
- Cũng chính bàn tay bà đã nhóm lên bếp lửa với khoai sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo mới làm ấm lòng cháu những ngày đông tháng giá. Và cũng chính là bà đã thổi bùng lên trong cháu ngọn lửa của tình yêu thương, khát vọng và ước mơ. Bà đã trở thành người bạn lớn, chia sẻ tâm tình. Cháu khôn lớn và trưởng thành như ngày hôm nay phần lớn là nhờ công lao chăm sóc, dạy dỗ của bà. Hình ảnh bà và bếp lửa đã trở thành kí ức thiêng liêng nâng đỡ cháu trên suốt chặng đường đời.
* Đánh giá nâng cao:
- “Bếp lửa” là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Qua lời thơ dung dị của Bằng Việt ta thấy hiển hiện hình ảnh một người bà thật đẹp - người bà Việt Nam.
- Phải là người yêu bà sâu sắc và mãnh liệt mới có thể tạo nên những dòng thơ chân thành, chứa chan tình cảm dành cho bà đến như vậy.
*Kết bài:
- Giọng thơ chân thành, sâu lắng.
- Bài thơ là tiếng lòng của đứa cháu xa bà.
- Cảm ơn Bằng Việt cho ta bài thơ hay viết về tình cảm con người, giáo dục chúng ta trân trọng tình cảm gia đình, quê hương, đất nước.
4. VẬN DỤNG CAO (1 câu)
Câu 11: Khi nói về “Bếp lửa” của Bằng Việt, có nhận định cho rằng: “Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt đầu nguồn từ lòng yêu quý ông bà cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.”
Suy nghĩ của anh/chị về nhận định này.
Trả lời:
Nhận xét trên quả thật xác đáng bởi nó đã khái quát đầy đủ chủ đề tư tưởng mà Bằng Việt muốn thể hiện trong “Bếp lửa”. Những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng. Sức tỏa sáng ấy chính là ánh hào quang của những điều cao đẹp, những điều thiêng liêng trân quý nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Và ánh sáng ấy vẫn mãi rạng soi, vẫn mãi như vì sao lấp lánh trong tâm hồn chúng ta từ thuở ấu thơ cho đến khi trưởng thành, thậm chí đến khi đã đi trọn cả cuộc đời, ánh sáng ấy vẫn trường tồn, vĩnh hằng – một thứ ánh sáng bất diệt. Nó như một bàn tay, một bàn tay như của cha, của mẹ, một bàn tay kỳ diệu dịu dàng nâng bước ta đi trong thầm lặng. Suốt cuộc đời, từ lúc tóc còn xanh cho đến khi bạc trắng, ánh sáng ấy vẫn mãi dõi theo, cho ta chỗ dựa, cho ta niềm tin, cho ta mơ ước.
Đó là một sức mạnh, một sức mạnh tinh thần cho ta liều thuốc là những hoài niệm xa xăm để thức tỉnh ta, kéo ta ra khỏi cuộc sống vồn vã, xô bồ của thực tại, để ta quay lại, ta nhìn nhận, ta chiêm nghiệm. Tuổi thơ trôi qua sao nhanh quá, tựa như chỉ hờ hững trong phút chốc đã thấy nó trôi qua tự lúc nào. Tuổi thơ để lại cho ta món quà là những kỷ niệm, mỗi một chiếc hộp là một niềm tiếc nuối. Hồi ức tuổi thơ như một trang giấy trắng mà nay đã đong đầy bởi ngàn nỗi nhớ mong. Tựa dòng sông quê hương cứ cuồn cuộn chảy rồi để lại một lớp phù sa ấn tượng trong tâm khảm. Lớp phù sa ấy được tạo nên từ lòng yêu những kỷ niệm thân thuộc của tuổi thơ, yêu quý ông bà, cha mẹ,… tất cả những nỗi nhớ niềm thương ấy đã được kết tinh lại thành một thứ tình cảm tươi mới hơn, cao cả hơn, sâu sắc hơn: Tình yêu đất nước. Điều này thật đúng đối với Bằng Việt, và hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ cùng tên chính là minh chứng rõ nét nhất cho nhận định này.
Từ những dòng thơ đầu tiên, tác giả đã khơi dậy cảm xúc trôi theo dòng ký ức:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa…”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa hiện lên thật giản dị mà chân thực, ấm áp biết bao nhiêu. Trong tâm thức người đọc cũng như chính nhà thơ, hình ảnh bếp lửa như vừa thực, vừa mơ qua các từ ngữ “chờn vờn”, “ấp iu”. “Chờn vờn” là từ láy thích hợp nhất để đặc tả sự thoáng ẩn hiện, trở đi trở lại của bếp lửa.
Từ bếp lửa ngoài đời thường đã đi vào trong trang thơ một cách rất đỗi tự nhiên. “Ấp iu” gợi lại hình ảnh người bà tần tảo đang nâng niu, dùng tay mình ủ ấm ngọn lửa để lan tỏa hơi ấm đến cháu. Hình ảnh bà lồng trong hình ảnh bếp lửa, cũng có khi tách riêng ra đứng song song nhưng chung quy lại cũng chỉ là một. Bếp lửa huyền ảo còn bà thì lại chân thật biết bao. Bà không quản nhọc nhằn, chịu đựng nắng mưa, đôi vai gầy của bà gánh vác cả trách nhiệm làm cha và làm mẹ. Biết bao gian khó, bà vẫn sớm hôm tần tảo nuôi cháu nên người. Niềm biết ơn sâu sắc ấy cũng từng được Nguyễn Duy thể hiện trong “Đò lèn”:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Biết bao năm qua, dẫu nắng gắt hay mưa giông, ngay cả trong những đêm đại hàn lạnh lẽo, bà vẫn vất vả ngược xuôi lo cho cháu từng miếng cơm manh áo, lo cho cháu được ăn học đủ đầy. Cả đời bà chỉ mong con cháu được sống trong đủ đầy, hạnh phúc mà luôn nhận vất vả về phần mình. Đối với Bằng Việt, bếp lửa khiến cháu nhớ về bà với tất cả những gì trân trọng nhất, thân thương nhất bằng lòng thành kính, biết ơn sâu nặng. Thứ tình cảm ấy đã hóa thành ngọn lửa sáng cháy lên soi tỏ một vùng trời tuổi thơ:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nhớ lại đến giờ sống mũi còn cay…”
Cháu sống với bà từ thuở nhỏ nên “đã quen mùi khói”, đã quen với bóng lưng còng thân thuộc của bà, đã quen với hình ảnh bếp lửa bập bùng bà nhóm lên mỗi sớm ban mai. Phải chăng sự thân quen ấy cũng chính là tình cảm gần gũi, thiêng liêng cháu dành cho bà, đến nỗi nó đã hóa thân cho một thứ gì cao quý nhất trong lòng cháu, thứ kho báu vô giá mang tên: kỷ niệm. Kỷ niệm về một thời gian khổ sống cùng bà chợt hiện lên trong tâm thức cháu đầy chân thật. Cái năm “đói mòn đói mỏi” ấy chính là nạn đói khủng khiếp năm 1945, một thảm họa đã cướp đi mạng sống của hàng triệu người dân Việt Nam lúc bấy giờ, đẩy nhân dân ta xuống tận cùng của vực thẳm tăm tối. Như Chế Lan Viên đã có lần chua chát thốt lên rằng:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!”
Giữa hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, lại lóe lên một tia sáng nhỏ, một tia sáng dẫu chỉ le lói trong đêm đen mù mịt – ánh sáng của bếp lửa, của tình bà cháu thiêng liêng, cao quý. Thứ ánh sáng ấy đã trỗi dậy mạnh mẽ, thắp sáng tâm hồn của cháu. Những kỷ niệm về một thời “khói hun nhèm mắt cháu” luôn được cất sâu vào nơi quan trọng nhất trong trái tim, nơi mà đối với mỗi người, nó chỉ dành riêng cho những gì cao quý nhất, để mà “nhớ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Tuổi thơ cháu gắn liền với bếp lửa, với năm tháng gian khó mà ấm áp bên bà, với làn khói cay cay, với đốm lửa nồng đượm. Cuộc sống cơ hàn, lam lũ là vậy nhưng đó mới chính là tuổi thơ của cháu, một vùng trời đầy ắp những kỷ niệm khó phai mà chẳng mấy ai dễ dàng có được.
Tuổi thơ – mỗi khi ai nghe thấy thế cũng tưởng rằng xa xôi lắm. Sự xa xôi ấy dường như đã trở thành xa xỉ, đến nỗi có dùng vàng bạc cũng chẳng thể mua được. Sự cố gắng chạm vào nhưng không thể đã hoá thành nỗi nhớ khắc khoải, da diết nơi ngực trái khi con người ta không còn thơ bé nữa. Tuổi thơ như một mảnh ghép quan trọng trong bức tranh của quá khứ gắn liền với đời sống tinh thần của mỗi con người. Nó là những gì thần tiên nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chúng ta.
Ta đã từng bắt gặp một quê hương đong đầy những kỷ niệm với “cô bé nhà bên” của Giang Nam:
“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Có những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh cầu ao
Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích”
“Quê hương” của Giang Nam – bài thơ quen thuộc trong trái tim mỗi người yêu thơ. Bài thơ dung dị, hồn nhiên như một nét cười buồn giữa cuộc chiến tranh tàn khốc. Quê hương là gắn liền với những kỷ niệm tuổi thơ, quê hương là dòng sữa mẹ nuôi ta khôn lớn, là chua chua quả khế vườn nhà, là hoa cau trắng muốt ngoài thềm, là bướm vàng rợn ngợp và tiếng sáo vi vu trong thơ của Đỗ Trung Quân:
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay”
Bài thơ gợi về dồn dập những kỷ niệm làm lòng ta xao xuyến không thôi. Lời thơ mộc mạc nhưng thi vị, hình ảnh thơ giản dị nhưng chứa đầy sức gợi. Tất cả đều là chất thơ toát lên từ một mảnh tâm hồn luôn nhớ về cội nguồn, từ nỗi nhớ thương quá khứ, từ sự nuối tiếc tuổi thơ ta sao trôi qua vội vàng quá đỗi. Khác với Đỗ Trung Quân hay Giang Nam, ta lại thấy ở Nguyễn Duy nhiều nét tương đồng với Bằng Việt, đó là tuổi thơ đều gắn bó bên người bà:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Những hồi ức thuở nhỏ hiện lên sao giản dị, đơn sơ mà đầy xúc cảm. Đoạn thơ như một thước phim quay chậm chân thật đến từng giác quan, để rồi biết bao kỷ niệm bỗng nhiên ùa về lập đầy tâm trí.
Xuôi theo dòng chảy của thời gian, “Bếp lửa” của Bằng Việt thực sự là một mảnh hồn trong trẻo nhà thơ có được, những kỷ niệm được khơi lại trong tâm tưởng bởi ngọn lửa nồng đượm hiện lên thật đơn sơ mộc mạc mà lại quá đỗi lớn lao:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Cuộc sống đói khổ, lam lũ luôn kề cận tuổi thơ của cháu đã khiến cháu đã khiến cháu trưởng thành hơn trong cách làm và sâu sắc hơn trong cách nghĩ. u cũng bởi thời gian “tám năm ròng” dài tưởng như vô tận. Cháu nhớ về những ngày còn sống bên bà, được bà kể cho nghe chuyện ở Huế trong tiếng tu hú tha thiết vọng về từ những cánh đồng xa:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà?
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Tiếng tu hú thường gợi về cảm giác đơn độc giữa khoảng không gian vắng vẻ, rợn ngợp lại im ắng, hoang sơ đến lạ thường. Từ những cánh đồng rộng lớn xa xăm, tiếng tu hú vọng về sao khắc khoải, sao da diết nhớ mong khi “mẹ cùng cha công tác bận không về”, một mình bà đảm đương trọng trách làm cha, làm mẹ, làm thầy mà “bảo cháu nghe”, “dạy cháu làm”, “chăm cháu học”. Cháu cùng bà sống trong những ngày tháng cơ cực mà vẫn ấm áp tình người, bà và cháu nương tựa vào nhau, tình bà cháu càng thêm bền chặt. Tình cảm “thương bà” của cháu chỉ được bộc lộ qua suy nghĩ chứ chẳng thể nói thành lời.
Cũng bởi tình cảm ấy quá đỗi lớn lao, đến nỗi không ngôn từ nào có thể diễn tả được. Nó được ấp ủ, nhen nhóm trong lòng cháu thật cảm động và thiêng liêng biết bao! Kí ức của một thời ấu thơ gắn liền với những năm tháng chiến tranh tàn khốc bên cạnh bà nay đã hóa thành một mảng rêu xanh bám sâu vào tiềm thức của cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Túp lều tranh ấy là mái ấm gia đình cháu sống cùng bà, tuy thiếu thốn vật chất nhưng luôn đủ đầy về tinh thần mà nay lại bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi. Cùng là ngọn lửa, nhưng ngọn lửa của bà nhen dậy trong cháu tình người ấm áp nồng hậu, tình làng nghĩa xóm gắn bó keo sơn của một dân tộc luôn lấy câu “Thương người như thể thương thân” để răn mình. Nỗi vất vả, lầm than ấy đã trở thành nỗi đau trong lòng người cháu, nỗi thương bà, thương đất nước mình gian lao trong kiếp nô lệ. Nhưng lạ thay, trước cái cảnh ngặt nghèo tăm tối ấy, bà vẫn vững vàng, vẫn kiên cường để làm gương cho cháu:
“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Khổ thơ là hình ảnh về cuộc sống của bà và cháu trong những năm giặc giã, khi cha mẹ đi công tác ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật chân thực và cảm động biết mấy, những gian khổ, những nhớ nhung đều phải giấu kín để người ở xa được yên lòng. Tấm lòng người bà không quản nhọc nhằn, tảo tần sớm hôm, chu đáo, ân cần biết bao nhiêu:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”
Nếu từ đây trở lên là hình ảnh bếp lửa thì những câu thơ tiếp theo tác giả lại chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực cụ thể nay đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trưng khái quát. Bếp lửa với những kỷ niệm ấm áp, những tâm tình bình lặng của tình bà cháu, của tình cảm gia đình đã hóa thành ngọn lửa của niềm tin, của sức sống con người. Bà nhóm bếp lên mỗi sớm mỗi chiều, nhen lên ngọn lửa rực rỡ lòng yêu thương. Dẫu biết bao mưa nắng, ngọn lửa ấy vẫn cứ bập bùng, vẫn cháy lên trong lòng bà một niềm tin bất diệt về một tương lai tươi sáng của cháu, về cách mạng toàn thắng của dân tộc Việt nam bất khuất anh hùng. Ngọn lửa vĩ đại ấy cứ cháy sáng, thắp sáng tâm hồn, đôi mắt, trái tim của cháu cho đến mãi sau này:
“Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Mỗi một ngọn lửa là biết bao ký ức tuổi thơ sống dậy với củ khoai, củ sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo sẻ chia với nhau lúc đói nghèo… từng kỷ niệm được gợi về dồn dập qua ngọn lửa của bà. Những ký ức của Bằng Việt về một thời thơ ấu sao quá đỗi bình dị, giản đơn mà sâu nặng nghĩa tình. Nó như một thứ ánh sáng diệu kỳ, là hành trang vững chắc chúng ta cho đến hết cuộc đời. Ngọn lửa nhân ái của lòng bà nhóm lên trong cháu tình yêu thương, sự sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau. Đặc biệt, điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần ở đầu mỗi câu thơ như muốn nhấn mạnh giá trị cốt lõi lớn lao mà bếp lửa đem lại. Ta bỗng bắt gặp đâu đây hình ảnh một người lính dừng chân bên xóm nhỏ, nhờ một âm thanh thân thuộc mà được sống dậy một lần tuổi thơ:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục… cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gợi về tuổi thơ”
Trong ký ức của anh bộ đội, anh yêu từ tiếng gà nhảy ổ đến ổ rơm với những quả trứng hồng, yêu cả tiếng bà mắng và những hành động trẻ thơ non dại. Giữa những sự vật thân thuộc ấy, hiện lên trong anh hình ảnh người bà chịu thương chịu khó nuôi cháu lớn khôn, tần tảo, chắt chiu để cuộc sống cháu được đủ đầy. Tất cả, tất cả những kỷ niệm tuổi thơ đã đi vào tâm thức cháu như một điều gì thiêng liêng, cao quý, trở thành lý tưởng sống và chiến đấu cao đẹp của cháu:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.”
Hôm nay cháu cầm súng, hôm nay cháu hy sinh nơi chiến trường nhưng cháu luôn mạnh mẽ kiên cường vì trong lòng cháu có bà, bên cạnh tình yêu đất nước là tình yêu gia đình, yêu xóm làng thân thuộc. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua đã viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc.”
Giống Xuân Quỳnh, đối với Bằng Việt, tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu bếp lửa, yêu người bà tần tảo sớm hôm nuôi cháu nên người. Từ những dòng thơ đầu khơi gợi cảm xúc, cảm hứng thơ trôi theo dòng ký ức, những kỷ niệm về một thời vất vả lam lũ bên bà, về những năm tháng kháng chiến gian lao mà oanh liệt của dân tộc ta. Giọng thơ như trầm xuống theo dòng cảm xúc, để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người bà – chỗ dựa tinh thần cho cháu trong suốt quãng đời thơ ấu và có lẽ cũng đến tận cuối đời. Cùng với xúc cảm ấy là hình ảnh bếp lửa, vừa là đối tượng để gợi nhớ, vừa là biểu tượng của tình cảm gia đình. Tình yêu gia đình hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước để rồi cuối cùng kết tinh lại trong câu thốt lên đầy nghẹn ngào:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Một lời thốt lên tưởng như mang theo cả những tâm tình thuở nhỏ từ tận đáy lòng. Bao nhiêu niềm yêu nỗi nhớ như vỡ oà trong dòng cảm xúc. Một niềm biết ơn trân trọng, sâu sắc khi bất chợt nhận ra trong vật gần gũi đơn sơ ấy lại ẩn chứa một điều kỳ diệu. Ngọn lửa ấy, bếp lửa bà nhen đã sưởi ấm tâm hồn cháu từ thuở bé đã đi theo cháu trong mỗi bước chân trên con đường trưởng thành:
“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ bà, nỗi nhớ quê hương khôn nguôi da diết. Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều kỳ diệu, mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa vào quá vãng, cháu giờ đây đã trưởng thành, cất cánh bay cao, bay xa trên bầu trời cao rộng. Dù vậy nhưng trong tâm thức cháu vẫn luôn hướng về hình ảnh bếp lửa bà nhen mỗi sớm ban mai nơi làng quê nghèo khó nhưng chất chứa biết bao kỷ niệm tuổi thơ. Ở đây, bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, yêu làng xóm, ngọn lửa của niềm tin bất diệt, của sức sống con người.
Câu hỏi tu từ dường như là hoài niệm. Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong niềm nhớ thương quá khứ. Ta lại bất giác nhớ đến những vần thơ xao xác buồn của Lưu Trọng Lư:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên sông
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.”
Với Bằng Việt cũng thế, cũng thơ hoài niệm, cũng đượm buồn, cũng man mác. Đặc biệt câu hỏi tu từ cuối bài như càng khắc khoải da diết, càng day dứt khôn nguôi. Nếu bếp lửa là nơi ấm áp nhất trong ngôi nhà bình yên thì trong tâm hồn bà cũng luôn có một ngọn lửa nồng đượm của tình yêu thương không bao giờ vơi cạn. Và dù người cháu có trưởng thành, có biết thêm “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” thì hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm hồn người cháu vẫn luôn là ánh lửa bập bùng của bà nơi quê hương yêu dấu. Cháu chẳng thể quên được vì đó là cội nguồn, là nơi cháu sinh ra, là nơi thổi vào tâm hồn cháu sự sống. “Ngọn khói trăm tàu” cũng chẳng bằng ngọn khói đã hun nhèm mắt cháu, ánh “lửa trăm nhà” cũng không thể sánh với ngọn lửa bà thắp lên trong quãng đời ấu thơ của cháu. Bởi bên bếp lửa ấy có bà, có kỉ niệm về một thời tuổi thơ gian khổ mà vẫn ấm tình người, tất cả trở thành một mảnh ghép quan trọng trong cuộc đời của cháu, trở thành một tín ngưỡng cao quý cháu luôn nâng niu, trân trọng.
Bài thơ là một bức tâm thư đầy ý nghĩa sâu sắc, từng con chữ như thay lời cháu nói, thể hiện tấm lòng yêu thương, biết ơn bà sâu nặng và trên tất cả còn là trái tim luôn hướng về quê hương, về nguồn cội của người con xa xứ. Thật đúng như nhận định: “Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt đầu nguồn từ lòng yêu quý ông bà cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
=> Giáo án Ngữ văn 8 kết nối Bài 6 Văn bản 3: Bếp lửa