Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều Bài 7 Đọc 1: Thương nhớ mùa xuân

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 11 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 7 Đọc 1: Thương nhớ mùa xuân. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 11 Cánh diều.

TL: THƯƠNG NHỚ MÙA XUÂN

NHẬN BIẾT

Câu 1: Tìm hiểu về tác giả Vũ Bằng?

Trả lời:

- Vũ Bằng (3 tháng 6 năm 1913 – 7 tháng 4 năm 1984), họ và tên đầy đủ là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo của Việt Nam.

- Ông là người có sở trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút ký. Ông đã vào Sài Gòn sau 1954 để làm báo và hoạt động tình báo.

- Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ông còn ký với các bút hiệu khác: Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm.

- Năm 17 tuổi (1931), ông xuất bản tác phẩm đầu tay Lọ Văn. Trong lãnh vực báo chí, ngay từ trong thập niên 30, thập niên 40, nghĩa là lúc ông còn rất trẻ, ông đã là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật và cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn…

- Mặc cho người mẹ cản ngăn, muốn ông du học Pháp để làm bác sĩ y khoa. Vũ Bằng quyết chí theo nghiệp văn chương.

- Sau năm 1954, Vũ Bằng vào Sài Gòn tiếp tục viết văn, làm báo. ông làm việc tại Việt Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Ông chuyên về dịch thuật nhiều hơn sáng tác. Đặc biệt với "cái ăn" ông viết rất tuyệt vời: Miếng ngon Hà Nội(bút ký, 1960),Miếng lạ miền Nam(bút ký, 1969) và trong Thương Nhớ Mười Hai(hồi ký, 1972).

 

Câu 2: Văn bản thuộc thể loại gì ?

Trả lời:

Văn bản thuộc thể loại: Tùy bút

Câu 3: Nêu xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm ?

Trả lời:

- Thương nhớ mười hai (1971) là một tùy bút đặc sắc, thể hiện tình cảm nhớ thương gia đình, quê hương miền Bắc và Hà Nội của nhà văn trong bối cảnh ông phải sống xa quê hương vì chiến tranh chia cắt đất nước. Tác phẩm là những trang vǎn về thiên nhiên, con người, phong tục của người Việt ở Bắc Bộ qua mười hai tháng trong một năm, mỗi tháng đều mang đặc trưng riêng.

- Đoạn trích trong SGK viết về tháng Giêng, thuộc chương một của tác phẩm.

Câu 4: Nêu phương thức biểu đạt của văn bản ?

Trả lời:

Phương thức biểu đạt: Thuyết minh, nghị luận

Câu 5: Nêu bố cục của văn bản ?

Trả lời:

Phần (1)

Giới thiệu về tháng Giêng và mùa xuân miên Bắc.

Phần (2)

Không khí, con người, cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng của Hà Nội vào mùa xuân.

Phần (3)

 Thời tiết đặc trưng và nếp sinh hoạt của người Hà Nội sau rằm tháng Giêng.

Phần (4)

Vẻ đẹp độc đáo của trăng non tháng Giêng.

 

THÔNG HIỂU

Câu 6: Nêu giá trị nội dung của tác phẩm ?

Trả lời:

- Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống, phong tục... miền Bắc khi xuân đến qua tình yêu, nỗi nhớ của tác giả. Qua đó thể hiện triết lí nhân sinh: Triết lí về tình yêu quê hương (Tình yêu quê hương là chất keo gắn kết con người với mảnh đất mình được sinh ra).

Câu 7: Nêu giá trị nghệ thuật của tác phẩm ?

Trả lời:

- Ngòi bút tài hoa, lãng mạn; kết cấu văn bản rất linh hoạt, tự do nhưng vẫn đảm bảo lô gích bởi mạch cảm xúc chủ đạo (cái tôi mê luyến mùa xuân); ngôn ngữ giàu chất thơ và hình ảnh; phát huy tối đa hiệu quả của các biện pháp tu từ...

Câu 8: Tóm tắt tác phẩm theo cách hiểu của em ?

Trả lời:

Tác phẩm “Thương nhớ mùa xuân" thể hiện niềm nhớ thương da diết về quê hương và gia đình. Với cách viết tùy bút chân thực và cụ thể, tác giả đã biểu lộ tình cảm thiêng liêng đó. Văn bản được trích từ tập Thương nhớ mười hai, trong đó tác giả đã gửi nỗi niềm nhớ thương quê vào từng trang sách, dù đất nước đang bị chia cắt và ông phải sống trong vùng kiểm soát của Mĩ - ngụy. Nhớ về mùa xuân của đất Bắc, của Hà Nội, Vũ Bằng đã tả lại những cảnh sắc thiên nhiên và đời sống sinh hoạt của người thủ đô một cách rõ ràng trong tâm trí của người con xa quê. Giọng văn nhẹ nhàng, du dương, trầm bổng của ông đã đưa độc giả lạc vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Ông đã nhắc đi nhắc lại như một lời tỏ tình thiết tha mà say đắm: “Mùa xuân của tôi... mùa xuân thần thái của tôi...” Qua đó, ông chứng tỏ tình yêu mùa xuân đã thấm đẫm vào sâu tâm hồn, máu thịt của người con đất Bắc.

VẬN DỤNG

Câu 9: Cách tác giả giới thiệu về tháng Giêng và mùa xuân có điểm gì độc đáo ?

Trả lời:

+ Tác giả giới thiệu về tháng Giêng và mùa xuân bằng tình yêu hiển nhiên của con người dành cho nó: “Ai bảo được non đừng thương nước, ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”.

Những quy luật tự nhiên của con người như trai yêu gái, non thương nước, mẹ yêu con, bướm yêu hoa thì ai cũng phải công nhận, thì tình yêu mùa xuân của con người cũng tự nhiên như thế, chẳng ai có thể cấm được. Mùa xuân vốn cũng đẹp, dịu dàng thế nên ai mà chẳng yêu mến mùa xuân.

Tác giả còn hình dung tình yêu mùa xuân của chàng trai và cô gái trẻ rạo rực như nhựa sống trong lòng, chỉ chờ dịp đặc biệt nào đó mà bất ngờ bung tỏa. Trong từng nhành mai, gốc đào đều rạo rực nhựa sống; núi cũng chuyển mình, sông hồ cũng rung động trong cuộc đổi thay của cuộc đời.

Câu 10: Biện pháp tu từ độc đáo nào được sử dụng trong đoạn đầu tiên của văn bản ?

Trả lời:

- Nghệ thuật: phép điệp ngữ ai bảo… đừng, ai cấm… đừng; điệp cấu trúc: CN + cụm động từ yêu mùa xuân; từ ngữ, hình ảnh đặc sắc... nhấn mạnh tình yêu mùa xuân chính là lẽ tất yếu trong cuộc đời của mỗi con người.

=> Cách mở bài tự nhiên, độc đáo, giàu hình ảnh, cảm xúc.

Câu 11: Cảnh sắc mùa xuân ở Hà Nội được miêu tả như thế nào ?

Trả lời:

+ Mùa xuân Hà Nội được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh miêu tả thời tiết, âm thanh:

mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng

=> Mùa xuân mang vẻ đẹp rực rỡ, tràn trề nhựa sống.

Câu 12: Con người Hà Nội vào mùa xuân được miêu tả như thế nào ?

Trả lời:

+ Vẻ đẹp con người khi xuân đến: Say sưa ngây ngất trước mùa xuân tươi đẹp; Muốn phát điên lên , không chịu được máu căng lên , tim trẻ ra , đập mạnh hơn, thèm khát yêu thương

+ Không khí gia đình đón Tết : Nhang trầm; Đèn nến; Đoàn tụ êm đềm; Trên kính dưới nhường; Đầm ấm , xum vầy

+ Nghệ thuật : Miêu tả, so sánh , ẩn dụ nhân hóa, điệp từ...

=>Mùa xuân tươi đẹp, đầm ấm tràn trề sức sống và những nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của con người, là nét văn hóa truyền thống.

Câu 13: Thời tiết đặc trưng của Hà Nội sau rằm tháng Giêng như thế nào ?

Trả lời:

+ Cảnh sắc thiên nhiên, thời tiết: Đào hơi phai nhụy còn phong; Cỏ nức mùi hương;

Trời hết nồm, mưa xuân; Bầu trời đã có những vệt xanh tươi; đã có hoa thiên lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa; Nền trời trong có những làn sáng hồng hồng; Thời tiết đặc trưng: không nóng, không rét; Khung cảnh đêm tháng Giêng : đêm xanh biêng biếc, có mưa dầy, nhìn rõ từng cánh sếu bay, trời vẫn rét một cách tình tứ nên thơ, ...

Câu 14: Nếp sống sinh hoạt con người nơi đât sau rằm tháng Giêng ra sao ?

Trả lời:

Trở về nếp sống thường ngày: bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh; Cánh màn điều treo ở bàn thờ ông vải đã hạ xuống; Các trò vui kết thúc trở về cuộc sống thường ngày.

+ Nghệ thuật: một lối viết tài hoa, câu chữ mượt mà, lời văn giàu hình ảnh, cảm xúc trong sáng đậm đà, giọng văn nhẹ nhàng...

Câu 15: Em có cảm nhận gì về thời tiết và nết sinh hoạt người Hà Nội sau rằm tháng Giêng ?

Trả lời:

Cảnh sắc thiên nhiên đẹp, không khí sinh hoạt của con người trở về nếp sống êm đềm thường nhật. Tuy thiên nhiên, nhịp sống có thay đổi chút ít nhưng vẫn rất đẹp, vẫn làm say đắm lòng người với cái mới mẻ của nó.

Câu 16: Vẻ đẹp độc đáo của trăng non vào Tháng Giêng được miêu tả như thế nào ?

Trả lời:

+ Trăng tháng Giêng mọc vào “Những đêm không mưa, trời sáng lung linh như ngọc”

+ Trăng tháng Giêng “non như người con gái mơn mớn đào tơ”, “đẹp hơn các tháng khác...”, “là cái đẹp của nàng trinh nữ thẹn thùng”, “ánh trăng lúc ấy không vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền”.

+ Nghệ thuật: Phép so sánh, nhân hóa, ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu hình ảnh, cảm xúc...

=> Trong cảm nhận có phần “thiên vị” của tác giả, trăng tháng Giêng trong trẻo, đẹp huyền ảo, thơ mộng.

Câu 17: Tình cảm của tác giả thành cho mùa xuân được thể hiện như thế nào qua tác phẩm ?

Trả lời:

- Trong văn bản, cái "tôi" tác giả thể hiện tình yêu, nỗi nhớ thương da diết về mùa xuân miền Bắc (lúc này, tác giả phải sống xa quê hương vì đất nước chia cắt). Đó cũng là cái “tôi” yêu quê hương đất nước mãnh liệt, nồng nàn.

- Một số câu vǎn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc:

+ Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trǎng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ,...

+ Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho con người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Nhựa sống ở trong người cǎng lên như máu cũng căng lên
trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối...

+ Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.

+ Nhưng tôi yêu nhất mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng Giêng...

+ Ðẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến.

Câu 18: Nêu ra điểm độc đáo của sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong văn bản là gì ?

Trả lời:

+ Nhiều chi tiết có sự đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình như: chi tiết miêu tả khung cảnh đoàn tụ đầm ấm của gia đình, chi tiết miêu tả thời tiết mùa xuân Hà Nội vào khoảng sau rằm tháng Giêng,...

+ Ngôn ngữ đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình: bên cạnh lời kể có nhiều tính từ, từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu cảm xúc.

VẬN DỤNG CAO

Câu 19: Viết bài văn nghị luận, nêu cảm nhận của em về tác phẩm “Thương nhớ mùa xuân” của nhà văn Vũ Bằng ?

Trả lời:

Mùa xuân không chỉ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên mà chính từ tâm hồn mỗi con người, ai ai cũng toát lên vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ mà nồng nàn khi đón chào mùa xuân mới. Trong tác phẩm Thương nhớ mùa xuân, Vũ Bằng đã viết “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Xuân đến khiến cho trái tim con người thổn thức, háo hức, sức sống trong người muốn cựa quậy, muốn bùng cháy. Xuân đã làm cho “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giả”. Cái rét của mùa xuân chẳng giống như rét “căm căm” của mùa đông xứ Bắc nữa, mà là một cái lạnh thật dịu dàng, thật nhẹ nhàng biết bao.

      Vũ Bằng với ngòi bút tài hoa, cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ cùng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ đã khiến cho người đọc hồi tưởng về kí ức của những mùa xuân đã qua, cái không khí, mùi hương của xuân của quê hương, của lòng người thoang thoảng mênh mang.

      Và xuân đến mang tới một tháng giêng tươi đẹp nhất, hội tụ những vẻ đẹp ngọt ngào nhất. Như trong Vội Vàng, Xuân Diệu đã từng nói “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Còn trong văn người thi sĩ Vũ Bằng, tuy chẳng được dịu ngọt, hối hả như Xuân Diệu nhưng lại mang vẻ đằm thắm và da diết khiến cho người đọc phải say mê, đấm chìm trong đó. Khi tháng giêng về đó cũng là lúc đất trời chuẩn bị có sự chuyển giao diệu kì và đầy tinh tế. Đất bắc mang một nét đẹp thật trong veo, đằm thắm, có sự hòa quyện nhịp nhàng giữa con người với cảnh sắc thiên nhiên đất trời. Và có lẽ vì thế mà lòng người cũng đồng điệu, hòa cùng những nhịp điệu nhộn nhịp của mùa xuân.

      Không biết vì lí do gì cứ “Tự nhiên như thế” người người, nhà nhà “ai cũng chuộng mùa xuân”. Không có gì lạ khi người ta yêu chiều, thích thú khi đón chào tháng giêng bới “tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân” vì thế mà “người ta càng trìu mến”. Xuân đến, mang bao điều tươi mới, mang tới sức sống tràn đầy, cho cây lá đâm chồi nảy lộc, cho hương sắc đất trời càng thêm rực rỡ, cho lòng người càng dịu dàng nồng say, xuân cứ ngọt ngào như vậy thì ai mà chẳng mê! “Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng” thì khi ấy “mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Vũ Bằng cũng giống với mọi người, chàng thi sĩ ấy cũng bày tỏ tình cảm yêu quý của mình dành cho mùa xuân xinh đẹp: “ Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế. Mùa xuân của tôi- mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...” Mùa xuân của Vũ Bằng là mùa xuân của miền Bắc Việt Nam, là cái không khí của xuân Hà Nội, là những cơn mưa xuân nhỏ li ti, kéo dài tới hàng mấy ngày, là những cơn gió man mát thi thoảng lại thổi một luồng qua những người đi đường, là âm thanh đặc trưng của mùa xuân,…. Tất cả những điều ấy đã tạo nên một xuân dịu dàng, nồng nàn khiến cho không chỉ tác giả mà biết bao tâm hồn con người phải đắm say vào đó. Vào lúc đất trời giao thoa, không khí dễ chịu, cảnh vật tươi tắn, những “người yêu cảnh” khi ấy chỉ muốn “khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống”. Người ta có thể dạo chơi, rồi thưởng thức hết vể đẹp của cái xuân ấy, thế là đã hết ngày. Vậy đấy “cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh”. “Cùng với mùa xuân trở lại” tâm hồi, trái tim “Người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá” Nhưng lúc ấy, đường sá ngoài kia chẳng còn sự lầy lội, ẩm ướt của cái giá lạnh mùa đông, thay vào đó là tiết trời dịu ngọt, êm ả, man mác, khiến ta sung sướng và hạnh phúc biết bao. “Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa”. 

      Tác giả đã không kìm được nữa mà phải thốt lên rằng “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”. Mùa xuân xinh đẹp như thế, ai mà chẳng yêu, ai mà chẳng nhớ, với tác giả mùa xuân Hà Nội khiến lòng nhà thơ đầy rộn ràng, nhộn nhịp, say đắm vô cùng. Đặc biệt ông “yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng” bởi lúc này đây “Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác”. Nhưng đồng thời cũng là lúc phải chia tay với những bữa cơm “thịt mỡ dưa hành” nhà nhà lại “bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng”.

      Thật vậy Thương nhớ mùa xuân của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc thật dịu dàng, nhẹ nhàng, trong tẻo và đầy tươi mới của mùa xuân “Bắc Việt”. Nó gợi nhắc cho độc giả về không khí nhộn nhịp, rộn rã, những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của một mùa xuân xinh tươi, tràn đầy sức sống. 

=> Giáo án dạy thêm Ngữ văn 11 cánh diều Bài 7: Thương nhớ mùa xuân

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận Ngữ Văn 11 Cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay