Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 chân trời sáng tạo Ôn tập bài 9 (P3)

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo. Câu hỏi và bài tập tự luận Ôn tập bài 9. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

ÔN TẬP BÀI 9

KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO

Câu 1: Em hãy trình bày giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Hịch tướng sĩ

Trả lời:

a, Nội dung

Tác phẩm phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước của TRần Quốc Tuấn và dân tộc Việt Nam.

b, Nghệ thuật

Lập luận sắc bén, lí lẽ, dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục, giọng văn hùng tráng

Kết hợp hài hòa giữa chính luận và văn chương

Câu 2: Tác giả đã phê phán những biểu hiện sai trái của các tướng sĩ, binh lính như thế nào?

Trả lời:

+ Tình cảnh đất nước thấy chủ nhục – mà không biết lo + Tình cảnh đất nước thấy chủ nhục – mà không biết lo

+ Hầu quân giặc – mà không biết tức + Hầu quân giặc – mà không biết tức

+ Thấy nước nhục – mà không biết thẹn + Thấy nước nhục – mà không biết thẹn

+ Nghe nhạc – không biết căm + Nghe nhạc – không biết căm

+ Chỉ biết đâm đầu vào những thứ trò chơi vô bổ như chọi gà, đánh bạc, săn bắn, uống rượu.... + Chỉ biết đâm đầu vào những thứ trò chơi vô bổ như chọi gà, đánh bạc, săn bắn, uống rượu....

+ Thú vui ruộng vườn, quyến luyến + Thú vui ruộng vườn, quyến luyến

Tác giả phê phán thái độ bàng quan thờ ơ, ăn chơi nhàn rồi chỉ lo vun vén cá nhân mà quên đi danh dự bổn phận, mất cảnh giác, lối sống an hưởng lạc cần được lên án.

Thảm bại là tất yếu nếu không thay đổi

+ Nếu ham chơi cựa gà trống – áp giáp giặc + Nếu ham chơi cựa gà trống – áp giáp giặc

+ Mẹo cờ bạc – mưu lược nhà binh + Mẹo cờ bạc – mưu lược nhà binh

+ Rượng lắm – việc quân cơ + Rượng lắm – việc quân cơ

+ Tiền của nhiều – không mua được + Tiền của nhiều – không mua được

+ Chén rượu ngon – giặc say chết + Chén rượu ngon – giặc say chết

+ TIếng hát hay – giặc điếc tai + TIếng hát hay – giặc điếc tai

Nước mất, nhà tan, bị bắt làm tù binh bị mất tất cả, chịu nhục mang tiếng dơ muôn đời

Cảnh báo bức tranh thảm họa nỗi đau đớn nhục nhạc của mất nước thân làm nô lệ.

Câu 3: Đọc lại văn bản Mẹ tôi, hãy cho biết tính mạch lạc trong văn bản đó được thể hiện ở các khía cạnh nào?

Trả lời:

Chủ đề xuyên suốt là sự ca ngợi lòng yêu thương, đức hi sinh của mẹ dành cho con.

Trình tự văn bản xoay quanh thể hiện chủ đề một cách liên tục, rất mạch lạc: bố đau lòng vì con thiếu lễ độ với mẹ: bố nói về mẹ; bố khuyên con xin lỗi mẹ một cách thành khẩn.

Câu 4: Trong văn bản "Hịch tướng sĩ", nét đặc sắc nghệ thuật nào tạo sức thuyết phục người đọc?

Trả lời:

Những đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:

Giọng văn biến đổi linh hoạt, đa dạng: khi bi thiết nghẹn ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát khiến cho bài hịch vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng, không rơi vào tình trạng giáo điều khô cứng, cũng không phải là sự ủy mị, lãng mạn.

Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi từ những tấm gương trong sử sách - sự thực không ai có thể chối cãi-> giãi bày tấm lòng mình -> ân nghĩa của chủ tưởng đối với binh sĩ -> những việc làm sai trái của họ -> những việc họ nên làm -> gợi ý sách nên đọc -> kết luận

Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tế và trong tương lai của những con người ấy.

Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc biệt là tác giả sử dụng dày đặc các câu văn biền ngẫu sóng đôi - một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả, giục giã cho bài hịch.

Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.

Câu 5: Đọc đoạn văn sau và cho biết đoạn văn mắc lỗi gì?

“ Mọi tác phẩm nghệ thuật đều bắt đầu từ một cảm xúc. Thơ là loại hình nghệ thuật có ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc điệu. Thơ có thể có vần hoặc không có vần”

Trả lời:

Đoạn văn mắc lỗi thiếu mạch lạc: câu thứ nhất nói về “mọi tác phẩm nghệ thuật” và nói đến cội nguồn của “mọi tác phẩm nghệ thuật”, trong khi câu thứ hai lại nói về “thơ”- vốn chỉ là một loại hình nghệ thuật, đồng thời lại nói đến ngôn ngữ thơ => Các câu trong đoạn không tập trung vào một chủ đề.

Câu 6: Lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua những chi tiết nào? Nhận xét về tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài Hịch tướng sĩ.

Trả lời:

Lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua những chi tiết:

- -  Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

- Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” - Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Qua những câu văn chân thành và xúc động, những lời tâm huyết, ruột gan của Trần Quốc Tuấn, ta có thể cảm nhận sâu sắc được tấm lòng yêu nước nồng nàn cùng tinh thần căm thù giặc cực độ của ông.

Câu 7: Viết đoạn văn khoảng 4 – 5 câu trình bày suy nghĩ của em về một vấn đề mà em tâm đắc nhất trong Hịch tướng sĩ.

Trả lời:

Qua Hịch tướng sĩ, ta có thể cảm nhận sâu sắc được tấm lòng yêu nước nồng nàn của Trần Quốc Tuấn. Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục mất nước, trong ông uất hận sục sôi, cháy bỏng quyết tâm chiến đấu vì dân tộc. Những lời tâm sự giản dị mà dồn nén ấy như được trào ra từ một trái tim thiết tha yêu nước. Thực là một tấm lòng, một tinh thần đáng trân trọng, đáng tự hào!

Câu 8: Mạch lạc và liên kết có mối quan hệ với nhau như thế nào?

Trả lời:

Mạch lạc và liên kết có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Không gắn với mạch lạc, liên kết sẽ chỉ tồn tại như một hình thức vô nghĩa. Ngược lại, không có liên kết, mạch lạc khó được nhận biết một cách đầy đủ, khiến nội dung đoạn văn, văn bản có thể được giải thích một cách rất khác nhau, thậm chí ngược nhau

Câu 9: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng nhằm tác động mạnh đến người đọc, người nghe trong văn bản Tôi có một giấc mơ?

Trả lời :

Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là biện pháp điệp cấu trúc “Tôi mơ rằng…” và đằng sau đó chính là những tưởng tượng của tác giả về một thế giới khi mà công lý và sự tự do đã được thi hành, con người chung sống bình đẳng, hạnh phúc. Chế độ nô lệ bị xóa bỏ hoàn toàn, con người được tự do cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc đưa ra những lời dự đoán như vậy nhằm tiếp thêm sức mạnh, động lực đấu tranh đến người nghe, đưa họ chìm đắm vào thế giới tự do mà tác giả tạo ra – đó là cái mà họ muốn, khát khao và cháy bỏng. Từ đó, thúc đẩy họ đấu tranh để biến giấc mơ ấy thành hiện thực, biến ngày ấy thành sự thật.

Câu 10: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Hữu Sơn và tác phẩm Nam quốc sơn hà – bài thơ thần khẳng định chân lí độc lập của đất nước.

Trả lời:

Tác giả

a, Tiểu sử

Tên:  Nguyễn Hữu Sơn

Sinh năm: 16/10/1959

Quê: Huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang

Ông tốt nghiệp đại học tổng hợp Hà Nội, khoa ngữ văn, chuyên ngành văn học cổ - cận đại Việt Nam 1982.

Sau đó ông học chuyên tư Hán – Nôm (1986-1989).

Ngoài ra, ông cũng tốt nghiệp đại học tiếng Trung năm 2004 và tiếng Nga trình độ C. Ông từng tham gia khảo sát loại hình tiểu thuyết thiền sư trong tác phẩm Thiền uyển tập anh. Năm 2004 ông được phong học hàm Phó Giáo sư.

b, Phong cách nghệ thuật

Triết lý, chặt chẽ, và tài hoa.

c, Tác phẩm tiêu biểu

Ông có 1 số tác phẩm chính như; Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Về một “hiện tượng” phê bình....

Tác phẩm

Tác phẩm Nam quốc sơn hà – bài thơ thần khẳng định chân lí độc lập của đất nước được in trong tập Giảng văn văn học Việt Nam trung học cơ sở.

Câu 11: Đọc đoạn văn sau và cho biết đoạn văn mắc lỗi gì? Sắp xếp lại cho đúng

(1) Bỗng nhiên, một vị thần khổng lồ xuất hiện. (2) Thuở ấy, chưa có thế gian, cũng chưa có muôn vật và loài người. (3) Thần bước một bước là có thể từ vùng này đến vùng nọ, hay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác. (4) Trời đất chỉ là một vùng hỗn độn tối tăm, lạnh lẽo. (5) Chân thần dài không thể tả xiết.

Trả lời:

Đoạn văn bị mắc lỗi các câu được sắp xếp theo trình tự không hợp lý.

Sắp xếp lại: 2 – 4 – 1- 5- 3

Câu 12: Chân lí độc lập  và chủ quyền dân tộc được tác giả thể hiện thế nào qua câu đề? Việc xưng “đế” mà không phải “vương” có ý nghĩa gì?

Trả lời:

Ngay từ câu thơ đầu tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc thông qua cách xưng “đế” chứ không phải “vương”.

Cách xưng “đế” thay cho “vương” làm nâng tầm địa vị và tầm vóc của nước Nam.

Đế tức là người có quyền lực tuyệt đối với một vương triều chính thống. Còn vương là người đứng đầu ở các nước nhỏ.

Thời Hai Bà Trưng, đến Ngô Quyền đều chỉ xưng vương. Tác giả Lý Thường Kiệt đã thay bằng “đế”

Điều đó cho thấy sự trưởng thành của ý thức dân tộc và quyền độc lập.

Đó chính là thái độ tự hào, tự tôn dân tộc khi coi nước Nam là một nước ngang hàng với các nước phương Bắc, vua Nam bằng vai với hoàng đến Trung Quốc

Câu 13: Nam quốc sơn hà thường được xem là một "bản tuyên ngôn độc lập" bằng thơ trong văn học Việt Nam và còn được gọi là bài thơ "Thần". Hãy phát biểu ý kiến của em về điều này.

Trả lời:

Nước Việt Nam ta với hơn 4000 ngàn năm văn hiến, trải qua biết bao cớ sự đổi thay, thế hệ ông cha ta hết lớp này đến lớp khác đều ra sức gây dựng Tổ quốc, bảo vệ quê hương, không ngừng khẳng định chủ quyền của dân tộc, của đất nước bằng cách đánh đuổi giặc ngoại xâm. Sự anh dũng, kiên cường ấy đã nhiều lần đi vào văn chương, trở thành những tác phẩm bất hủ có giá trị muôn đời. Nền văn học trung đại nổi tiếng với nhiều các thể loại thơ ca, trong đó ở thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi bật và mang vẻ hào khí dân tộc sâu đậm, được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta ấy là Nam quốc sơn hà. Với số câu và số chữ hạn chế, thế nhưng bài thơ vẫn truyền tải được đầy đủ tấm lòng yêu nước và sự hùng tráng của nhân dân ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, đồng thời còn là lời khẳng định chủ quyền đất nước một cách mạnh mẽ và sâu sắc. Nam quốc sơn hà ra đời vào khoảng năm 1077, khi quân Tống tràn vào xâm lược nước ta. Có nhiều giả thiết cho rằng bài thơ là sáng tác của Lý Thường Kiệt, bởi ông là người đã đọc cho quân sĩ nghe và lan truyền nó trong khắp quân đội Đại Việt, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có kết luận chính xác về vấn đề này. Ngoài ra còn có một số lời tương truyền rằng bài thơ này được thần linh truyền lại cho Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt năm 1077, nên người ta còn cung kính gọi nó là bài thơ “Thần”. Gọi là “thần” không chỉ bởi xuất phát từ nguồn gốc mà nó cò nằm ở sức mạnh vực dậy sĩ khí, nâng cao sức mạnh chiến đấu trong quân đội như một khúc ca hùng tráng về lòng yêu nước và hào khí dân tộc trong chống giặc ngoại xâm.

Câu 14: Ngoài biểu ý, “Sông núi nước Nam” có biểu cảm (bày tỏ cảm xúc) không? Nếu có thì thuộc trạng thái nào? (lộ rõ, ẩn kín)

Hãy giải thích tại sao em chọn trạng thái đó.

Trả lời:

Bài thơ chủ yếu thiên về biểu ý song không phải vì thế mà trả thành một bài luận lí khô khan. Có thể nhận thấy rằng, đằng sau tư tưởng độc lập chủ quyền đầy kiên quyết ấy là một cảm xúc mãnh liệt ẩn kín bên trong. Nếu không có tình cảm mãnh liệt thì chắc chắn không thể viết được những câu thơ đầy chí khí như vậy.

Câu 15: Chỉ ra lỗi thiếu mạch lạc trong đoạn trích dưới đây và nêu cách sửa

“Trong ca dao Việt Nam, những bài hát về tình yêu nam nữ là những bài hát nhiều hơn tất cả. Họ yêu gia đình, yêu cái tổ ấm cùng nhau chung sống, yêu nơi chôn rau cắt rốn. Họ yêu người làng, người nước, yêu từ cảnh đồng ruộng, đến công việc trong xóm ngoài làng. Tình yêu đó nồng nhiệt, đằm thắm, sâu sắc.”

Trả lời:

Đoạn văn trên mắc lỗi lạc chủ đề. Chúng ta sẽ sửa bằng cách triển khai nội dung về tình yêu nam nữ trong ca dao Việt Nam ở câu 2 và 3

Câu 16: Qua các cụm từ "tiệt nhiên" (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), "định phận tại thiên thư " (định phận tại sách trời), "hành khan thủ bại hư " (chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), hãy nhận xét về giọng điệu của bài thơ

Trả lời:

Qua các cụm từ “tiệt nhiên” (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), “định phận tại thiên thư” (định phận tại sách trời) và “hành khan thủ bại hư” (chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta có thể nhận thấy cảm hứng triết luận của bài thơ đã được thể hiện bằng một giọng điệu hào sảng, đanh thép, đầy uy lực.

Câu 17: Đã nói đến thơ là phải có biểu ý và biểu cảm. Vậy bài thơ Sông núi nước Nam có hình thức biểu ý, biểu cảm như thế nào?

Trả lời:

Bài thơ thiên về biểu ý (nghị luận, trình bày ý kiến), bởi bài thơ đã trực tiếp nêu rõ ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống ngoại xâm, nhưng vẫn có cách biểu cảm riêng. Ở đây, cảm xúc, thái độ mãnh liệt, sắt đá đã tồn tại bằng cách ẩn vào bên trong ý tưởng. Người đọc biết nghiền ngẫm, biết suy cảm, sẽ thấy thái độ, cảm xúc trữ tình đó.

Câu 18: Chỉ ra và nêu cách sửa lỗi liên kết trong những trường hợp sau:

a, Ngoài sân vang lên tiếng guốc khua lộp cộp. Và tôi không nghe thấy gì

b, Trong quá trình tồn tại và phát triển, kho tàng Thần thoại Hy Lạp đã trải qua nhiều biến đổi, pha trộn rất phức tạp. Tuy nhiên, những gì còn lưu giữ được đến hiện nay về thần thoại Hy Lạp không phải ở dạng nguyên sơ nhất

c, Hiếu rất thích đọc truyện Mười hai sứ quân. Em đã học được nhiều bài học quý giá ở họ

Trả lời:

a, Lỗi dùng phương tiện liên kết chưa phù hợp. Thay chữ “và” bằng chữ “nhưng”

b, Lỗi dùng phương tiện liên kết chưa phù hợp. Thay từ “Tuy nhiên” bằng từ “vì vậy”

c, Dùng phương tiện liên kết chưa phù hợp. Sửa thành “Hiếu rất thích đọc truyện Mười hai sứ quân. Em đã học được nhiều bài học quý giá trong truyện này”

Câu 19: Sau bài thơ Sông núi nước Nam, vào đầu thế kỉ XV, trong bài “Đại cáo bình Ngô”, Nguyễn Trãi đã viết:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Em hãy phân tích, so sánh, làm rõ về sự phát triển của ý thức dân tộc từ bài thơ “Sông núi nước Nam” đến đoạn trích “Đại cáo bình Ngô” trên đây.

Trả lời:

Để làm bài tập này, em hãy lần lượt thực hiện các thao tác sau:

a) Xác định đúng yêu cầu của bài tập là làm rõ được sự phát triển của ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam đến Đại cáo bình Ngô.

b) Tìm hiểu lại các yếu tố của nội dung ý thức dân tộc đã được học ở bài Sông núi nước Nam và tìm hiểu thêm các yếu tố thuộc nội dung ý thức dân tộc trong đoạn trích Đại cáo bình Ngô.

c) Sau đó, tổng kết nêu lên sự phát triển của ý thức dân tộc (từ Sông núi nước Nam đến đoạn trích Đại cáo bình Ngô) với những gợi ý sau đây:

– Ở Sông núi nước Nam đã có ý thức về lãnh thổ, về giống nòi (người nước Nam mà vua Nam đại diện), về chủ quyền và tinh thần kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền của đất nước.

– Đến đoạn trích Đại cáo bình Ngô, ý thức dân tộc phát triển đã tạo được một định nghĩa hoàn chỉnh về dân tộc trong đó có đủ các yếu tố cơ bản: lãnh thổ, giống nòi (được nói với ý thức tự hào), lịch sử, phong tục, văn hoá (và dĩ nhiên có cả tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược mà bài Đại cáo bình Ngô đã thể hiện). Điều đó chứng tỏ, qua gần bốn thế kỷ, quan niệm về dân tộc trong lịch sử nước ta ngày một sáng rõ hơn, hoàn chỉnh hơn.

Câu 20: Phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ

Trả lời:

Năm 1285, Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Trước đó, tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần trao trọng trách “Tiết chế thống lĩnh". Ông đã viết “Hịch tướng sĩ” kêu gọi ba quân nâng cao cảnh giác, học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng quân xâm lược phương Bắc. Có thể xem “Hịch tướng sĩ” là một văn kiện lịch sử trọng đại hàm chứa tình cảm yêu nước và khí phách anh hùng, đồng thời mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng đáng là một kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Vì thế khi nhận xét về tác phẩm này có ý kiến cho rằng “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn là văn sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng. Đó là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên – Mông.

“Hịch tướng sĩ” là tiếng nói của vị Thống soái sục sôi nhiệt huyết. Cái lo buồn, nỗi căm giận, niềm khao khát của Trần Quốc Tuấn thể hiện trong bài hịch sục sôi một bầu máu nóng. Mối quan hệ của vị Quốc công với tướng sĩ là mối quan hệ “chủ – tớ” nhưng chứa chan tình nghĩa, đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử có nhau: “… lúc mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”.

Trước sự hoành hành của sứ giặc, trước họa xâm lăng của đế quốc Nguyên – Mông, ông mang một tâm trạng cay đắng, thao thức suốt những đêm dài. Tâm trạng ấy của ông là cả một bầu nhiệt huyết sôi sục: “Huống chi, ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau”.

Bằng một nhãn quan chính trị sâu sắc, cảnh giác, vị Tiết chế đã vạch trần dã tâm của bọn bành trướng phương Bắc muốn biến nước ta thành quận huyện của chúng, lên án hành động vơ vét của kho, “đòi ngọc lụa ” “thu bạc vàng ” để thỏa lòng tham không cùng của lũ sứ giặc Mông Cổ. Ông nhắc tướng sĩ không được khoanh tay, ngồi nhìn giặc lấn tới, vì như thế “Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao khỏi để tai vạ về sau”

Phần cuối bài hịch, là lời khuyên răn, trách cứ tướng sĩ về việc học tập binh thư cũng sục sôi nhiệt huyết sáng ngời đạo “thần – chủ ” và lập trường “nghịch thù”. Giọng văn hùng hồn, trang nghiêm, cảm hóa lòng người sâu sắc: “Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù”

“Hịch tướng sĩ” còn là một tác phẩm tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng được thể hiện ở thái độ căm thù giặc, quan niệm sống và chết, nô lệ và tự do,… Ở khía cạnh nào, biểu hiện nào, tác giả cũng biểu lộ một chí khí anh hùng, lẫm liệt và quyết chiến quyết thắng!

Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết không thể dung tha! Hiện tại chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù thì đau đớn vô cùng: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Với lũ giặc Nguyên – Mông, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Vì Tổ quốc Đại Việt muôn quý nghìn yêu mà tướng sĩ chỉ có một con đường, một hành động “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bê được đầu Hốt Tất Liệt ở của khuyết làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”.

Vì Tổ quốc Đại Việt nên không thể mất cảnh giác và chiến bại, để đến nỗi “ta cùng các ngươi sẽ bị giặc bắt, đau xót biết chừng nào” không những thế “ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận..”

Vì sự sống còn và niềm vinh quang của dân tộc mà quyết tâm đánh thắng giặc Nguyên – Mông để “tông miếu … được muôn đời tế lễ “, “tổ tông… được thờ cúng quanh năm “, để tên họ tướng sĩ “sử sách lưu thơm”. “Hịch tướng sĩ” truyền đến ba quân khí thế, tinh thần quyết chiến quyết thắng, biến thành sức mạnh Sát Thát đưa đến những thắng lợi, những chiến công giòn giã: “Chương Dương cướp giáo giặc – Hàm Tử bắt quân thù (Trần Quang Khải) bảo toàn sơn hà xã tắc.

Có thể nói “Hịch tướng sĩ” là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên – Mông. Thế kỉ XII, XIII trên một vùng địa lý mênh mông, hàng chục quốc gia, hàng trăm thành trì từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam, từ Trung Á tới sông Volga,… đã bị vó ngựa quân xâm lược Mông cổ giày xéo, nghiền nát. Một nhà thơ Ác-mê-ni trong thế kỉ XIII đã viết:

“Không còn một dòng suối, một con sông nào

không tràn đầy nước mắt chúng ta;

Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào

không bị quân Tác-ta giày xéo”.

Quân Tác-ta là đoàn kỵ binh của đế quốc Mông Cổ. Thế mà, cả ba lần, giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đều bị đại bại thảm hại. Quân dân Đại Việt đã đoàn kết một lòng, từ vua tới tướng sĩ đều nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Vai trò của Trần Quốc Tuấn là cực kì to lớn: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn” (Đằng giang phú).

Các tướng sĩ đời Trần có một số là anh hùng – thi sĩ như Trần Quang Khải, Phi Ngũ Lão, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông cũng là những vua anh hùng – thi sĩ. Thơ văn của họ chứa chan tinh thần yêu nước:

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng

(Trần Nhân Tông)

“Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu”

(Trần Quang Khải)

Các bài thơ này đều tiêu biểu cho “Hào khí Đông A". Nhưng như đã phân tích ở trên, nội dung và tác dụng to lớn và sâu sắc của “Hịch tướng sĩ” nó xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất thời đại chống Nguyên Mông.

“Hịch tướng sĩ” cùng với các chiến công như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng - đã gắn liền với tên tuổi vị anh hùng Trần Quốc Tuấn, làm sáng ngời sử sách. Nó khúc tráng ca chống xâm lăng. Nó tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tư thế hiên ngang, lẫm liệt của đất nước và con người Đại Việt.

Sống trong tư thế hiên ngang! Biết nhìn xa trông rộng, cảnh giác trước âm mưu thâm độc của mọi kẻ thù! Chết vinh còn hơn sống nhục trong kiếp ngựa trâu! v..v… Đó là những tư tưởng lớn nhất, bài học sâu sắc nhất mà Trần Quốc Tuấn muốn bày tỏ với tướng sĩ, với nhân dân ta, với mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại qua “Hịch tướng sĩ”.

Trong bài “Bạch Đằng giang phú“, Trương Hán Siêu đã viết: trận Bạch Đằng mà đại thắng – Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”. “Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng! Đó là một câu nói bất hủ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – người anh hùng vĩ đại của dân tộc ta.

Đã trải qua hơn 800 năm nhưng “Hịch tướng sĩ”mãi là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Đó là áng văn chính luận, hùng hồn đanh thép, sục sôi nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thi mang sức mạnh của muôn vạn hùng binh. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, lòng em lại có cảm xúc tự hào về truyền thống cha ông, truyền thống yêu nước quật cường, khí phách hiên ngang lừng lẫy.

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 10 chân trời sáng tạo - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu môn khác

Tài liệu mới cập nhật

Chat hỗ trợ
Chat ngay