Câu hỏi tự luận ngữ văn 8 cánh diều Bài 4 văn bản 1: Đổi tên cho xã

Bộ câu hỏi tự luận Ngữ văn 8 Cánh diều. Câu hỏi và bài tập tự luận Bài 4 văn bản 1: Đổi tên cho xã. Bộ tài liệu tự luận này có 4 mức độ: Thông hiểu, nhận biết, vận dụng và vận dụng cao. Phần tự luận này sẽ giúp học sinh hiểu sâu, sát hơn về môn học Ngữ văn 8 Cánh diều

BÀI 4: HÀI KỊCH VÀ TRUYỆN CƯỜI 

VĂN BẢN 1: ĐỔI TÊN CHO XÃ
(14 câu)

 

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Hãy trình bày những hiểu biết của em về văn bản “Đổi tên cho xã” (tác giả, thể loại, nội dung,…)

Trả lời:

- Tác giả: Lưu Quang Vũ

- Thể loại: hài kịch

- Văn bản được trích từ vở kịch “Bệnh sĩ”.

- Nội dung: Văn bản là về cuộc họp đổi tên xã và các chức danh, phòng ban từ đơn giản, thân thuộc trở nên “cao sang”, “hiện đại”. Những điều giả tạo, lố bịch này gây nên tiếng cười cho người đọc và lên án bệnh sĩ, thói ảo tưởng.

 

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Lưu Quang Vũ.

Trả lời:

Tham khảo:

- Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 – 29 tháng 8 năm 1988) là một nhà soạn kịch,nhà đạo diễn sân khấu người Việt Nam.

- Lưu Quang Vũ sinh tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hoà bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của ông đã sớm bộc lộ từ nhỏ và vùng quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của ông sau này.

- Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không-Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.

- Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,...

- Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.

- Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v. Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.

- Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của anh được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu.... Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.

 

Câu 3: Hãy nêu những hiểu biết của em về đặc điểm của hài kịch.

Trả lời:

- Hài kịch là một thể loại kịch dùng biện pháp gây cười để chế giễu các tính cách và hành động xấu xa, lố bịch, lỗi thời của con người.

- Nhân vật của hài kịch là đối tượng của tiếng cười, gồm những hạng người hiện thân cho các thói tật xấu hay những gì thấp kém trong xã hội. Tính cách của nhân vật hài kịch được thể hiện qua những biến cố dẫn đến sự phơi bày, phê phán cái xấu.

- Hành động trong hài kịch là toàn bộ hoạt động của các nhân vật (bao gồm lời thoại, điệu bộ, cử chỉ,...) tạo nên nội dung của tác phẩm hài kịch. Hành động thể hiện qua lời thoại dưới các dạng: tấn công – phân công; thăm dò – lảng tránh; chất vấn – chối cãi; thuyết phục – phủ nhận/ bác bỏ; cầu xin – từ chối;...

- Xung đột kịch thường nảy sinh dựa trên sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tác động qua lại giữa các nhân vật hay các thế lực. Có nhiều kiểu xung đột: xung đột giữa cái cao cả với cái cao cả, giữa cái cao cả với cái thấp kém, giữa cái thấp kém với cái thấp kém,... Trong hài kịch, do đặc điểm, tính chất của các nhân vật, xung đột thường diễn ra giữa cái thấp kém với cái thấp kém.

- Lời thoại là lời của các nhân vật hài kịch nói với nhau (đối thoại), nói với bản thân (độc thoại) hay nói với khán giả (bàng thoại), góp phần thúc đẩy xung đột hài kịch phát triển.

- Lời chỉ dẫn sân khấu là những lời chú thích ngắn gọn của tác giả biên kịch (thường để trong ngoặc đơn) nhằm hướng dẫn, gợi ý về cách bài trí, xử lí âm thanh, ánh sáng, việc vào – ra sân khấu của diễn viên thủ vai nhân vật cùng trang phục, hành động, cử chỉ, cách nói năng của họ,...

- Thủ pháp trào phúng: Hài kịch thường sử dụng các thủ pháp trào phúng như phóng đại tính phi lô-gíc, tính không hợp tình thế trong hành động của nhân vật (hành vi, lời nói, cử chỉ, trang phục,...); các thủ pháp tăng tiến, giễu nhại, mỉa mai; lối nói hóm hỉnh, lối chơi chữ, lối nói nghịch lí;...

 

Câu 4: Nội dung chính của văn bản “Đổi tên cho xã” là gì? Nội dung đoạn trích này liên quan như thế nào với tên vở kịch “Bệnh sĩ”?

Trả lời:

- Nội dung chính của văn bản: Thông qua cuộc họp đổi tên xã và các phòng ban một cách không thực tế và lố bịch, tác giả đã cho thấy tính sĩ diện, háo danh, bên ngoài thì tỏ ra có tầm nhìn chiến lược, giỏi giang nhưng bên trong thì ngu dốt, chẳng có hiểu biết thực tế gì cả của không chỉ ông chủ tịch xã mà còn ở những người khác.

=> Nội dung đoạn trích liên quan trực tiếp đến tên vở kịch “Bệnh sĩ”.

 

Câu 5: Quan sát văn bản và chỉ ra cách trình bày kịch bản có gì khác với cách trình bày một truyện ngắn, bài kí hoặc thơ. Nhận biết các chỉ dẫn sân khấu (các dòng chữ in nghiêng đặt trong ngoặc đơn) và chức năng của các chỉ dẫn ấy.

Trả lời:

- Sự khác nhau về cách trình bày vở kịch với cách trình bày truyện ngắn, bài kí, bài thơ: Vở kịch phân tách mỗi lời nói của nhân vật thành một dòng, có ghi rõ ở đầu dòng tên nhân vật, không hình thành các đoạn văn ngoại trừ phần chỉ dẫn sân khấu nêu bối cảnh hoặc hoạt động. Trong khi đó, truyện ngắn hay kí thì trình bày thành các đoạn văn, lời thoại cũng được lồng ghép các đoạn văn; còn thơ thì trình bày thành các dòng với những đặc điểm hình thức khác biệt hoàn toàn.

- Các chỉ dẫn sân khấu trong văn bản:

+ Phần in nghiêng ở đầu văn bản: nêu lên bối cảnh, hoạt động ban đầu của Cảnh 1 trong vở kịch.

+ Phần in nghiêng sau đó: trình bày các hoạt động của nhân vật.

=> Chỉ dẫn sân khấu nhằm trình bày các thông tin không nằm trong hành động nói của nhân vật.

 

2. THÔNG HIỂU (4 câu)

Câu 1: Hãy phân tích một số đặc điểm hài kịch được thể hiện rõ ở văn bản “Đổi tên cho xã”.

Trả lời:

Một số đặc điểm hài kịch được thể hiện trong văn bản:

- Xung đột trong văn bản là mâu thuẫn giữa sự chân thực, thật thà với bệnh giả dối, ảo tưởng. Sự chân thực ở đây là thực tế của xã Cà Hạ: người dân trong xã hầu như chỉ quen với những công việc thôn quê, ít kiến thức, hiểu biết, không có học vấn để làm những công việc lớn lao. Bệnh giả dối, ảo tưởng ở đây là: ông Toàn Nha muốn đưa xã mình sang một trang sử mới, biến xã Cà Hạ thành một địa phương giàu có, hiện đại bậc nhất. Đó là điều không thể nào khi chính ông còn là người dốt nát nhưng lại sĩ diện.

- Nhân vật ông Toàn Nha trong văn bản không có sự tương xứng giữa thực chất bên trong và hình thức bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động, lời nói và việc làm. Ông Toàn Nha kém hiểu biết, không nhận thức đúng tình trạng của xã mình nhưng lại luôn tỏ ra là mình giỏi giang, luôn nói những điều to tát, cao siêu, hiện đại, luôn mơ mộng, ảo tưởng.

- Thủ pháp trào phúng: nghệ thuật phóng đại. Trong văn bản, những lời phát biểu của ông chủ tịch xã đã được phóng đại lên nhiều lần bằng các lời lẽ hoa mĩ, sáo rỗng để người đọc thấy rõ bệnh khoa trương, hình thức đến mức giả dối, lố bịch.

 

Câu 2: Liệt kê những phòng ban, chức vụ được đổi tên trong văn bản. Hãy nhận xét về các tên mới.

Trả lời:

Tên cũ

Tên mới

Hợp tác xã Cà Hạ

Liên đoàn Tổ hợp tác xã Công Nông Thương Tín Hùng Tâm

Đội trưởng đội Sáu

Chủ nhiệm Trung tâm Công nghệ kiêm Trưởng ban Ngoại vụ của Liên hợp xã

Tổ tưởng Tổ nề mộc

Chủ nhiệm Trung tâm Xây dựng và kiến thiết cơ bản

Cửa hàng trưởng Cửa hàng mua bán xã

Chủ nhiệm Công ty dịch vụ Thương nghiệp Hùng Tâm

Đội trưởng đội Hai

Chủ nhiệm Trung tâm Điều phối nhân lực và sản xuất nông nghiệp

Trưởng trại lợn

Chủ nhiệm Trung tâm Chăn nuôi gia súc

(Nơi làm việc của ông Độp hoạn lợn)

Trung tâm Triệt sản gia súc

 

Nhận xét: Những tên mới được đặt theo kiểu đặt tên của các ban ngành ở cơ quan, tổ chức, chính quyền cấp cao hay các công ty lớn. Điều này phần nào cho thấy thói ham hư vinh, học đòi của ông Toàn Nha.

 

Câu 3: Hãy nhận xét về nhân vật Văn Sửu.

Trả lời:

- Văn Sửu là thư ký của ông Toàn Nha, có học, có chữ nghĩa. Điều đó được thể hiện qua việc anh ta giúp ông Toàn Nha đặt những cái tên mới, qua việc nịnh hót,… Là một người có học nhưng anh ta lại hỗ trợ, cổ vũ cho những việc làm mơ mộng không đâu của ông Toàn Nha. => Đây là một kiểu người đáng lên án, kiểu người làm cho cái xấu phát triển hơn.

 

Câu 4: Hãy chỉ ra các chi tiết, lời nói gây cười trong văn bản.

Trả lời:

Những chi tiết, lời nói gây cười nằm ở:

- Những lời nói có tính cường điệu của ông Toàn Nha, nhân vật chính

- Đoạn thay đổi các chức vụ

- Đoạn triệt sản

- Đoạn ví von, so sánh của ông Nha.

- Đoạn ông Nha trình bày về phương án làm pháo.

 

3. VẬN DỤNG (3 câu)

Câu 1: Nhân vật ông chủ tịch xã Toàn Nha tiêu biểu cho kiểu người nào trong xã hội? Hãy phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật này.

Trả lời:

- Nhân vật ông chủ tịch xã Toàn Nha tiêu biểu cho kiểu người sĩ diện, háo danh nhưng bên trong chẳng có tí kiến thức hay suy nghĩ thực tế nào.

- Đặc điểm tính cách của nhân vật này trong văn bản:

+ Thông qua việc đổi tên xã và các phòng ban, ta có thấy rằng kiểu suy nghĩ của ông là chỉ cần thay đổi về mặt hình thức là mọi thứ sẽ đi lên. Cách đổi tên cho thấy ông hứng thú một cách mù quáng với những thứ ở những nơi là trung tâm, những nơi phát triển. Đây là kiểu tư duy không thực tế. 

+ Ông Toàn Nha đưa ra những thay đổi không phù hợp về việc làm như: công việc của ông Độp chuyển từ đi tới tận nhà để hoạn sang phải mang con vật tới tận trụ sở để hoạn; dẹp bỏ những công việc mà ông coi là manh mún do ông Thình vốn phụ trách để chuyển sang làm pháo. 

+ Đoạn so sánh mình và Văn Sửu với Nguyễn Trãi và Lê Lợi cho thấy ông chẳng có hiểu biết gì nhưng lại nói những điều cao sang.

+ Việc ông muốn đưa xã Cà Hạ vươn lên giàu mạnh, hạnh phúc; gạt bỏ những điều cần thiết, thực tế của địa phương; đòi hỏi con mình trở thành nhà khoa học cho thấy ông là người sĩ diện, ảo tưởng.

 

Câu 2: Hãy nhận xét về hai nhân vật ông Độp và ông Thình.

Trả lời:

- Nhân vật ông Độp: Ông là phần nào có nét giống ông Toàn Nha: mặc dù trình độ thấp kém nhưng lại thích thú một cách mù quáng với những những thứ mĩ miều, xa với, những thứ hình thức, giả tạo. Điều đó được thể hiện qua chuyện khi những người khác đã được “chuyển” sang một chức vụ mới còn ông chưa được nói đến thì ông đã đòi hỏi ngay, mặc dù sau đó thì ông cũng chẳng hiểu ngay được từ “triệt sản” là gì. Khi vợ ông chê là việc đổi tên vẫn là thế thì ông cũng hùa theo Văn Sửu mà chỉ trích lại vợ mình là quê mùa.

- Nhân vật ông Thình có một điểm giống với ông Thình là trình độ thấp kém: ông không hiểu được cái chức danh mới của mình là như thế nào rồi khi ông Toàn Nha nói về việc làm pháo, ông cũng không hiểu được ý của ông Toàn Nha là làm pháo nổ chứ không phải là trồng cà pháo.

 

Câu 3: Hãy nhận xét về ngôn ngữ trong văn bản.

Trả lời:

Ngôn ngữ trong văn bản mang tính cường điệu, phóng đại; ngôn từ thể hiện những đặc trưng của nhân vật nhằm làm nổi rõ tính hài kịch. Ta có thể thấy điều này qua:

- Tên của các nhân vật: Thình, Độp, Tỵ,… Ngay những cái tên cho ta thấy đây là một miền quê nghèo, dân trí thấp.

- Những cách dùng từ, đặt câu như: nói cụ thể hơn là giờ phút này; lịch sử xã ta mở sang một trang mới; thủ phủ; long trọng tuyên bố kế hoạch xây dựng cách tân, toàn diện và triệt để, rộng lớn và phong phú, mới mẻ và khoa học,…

- Những đoạn hội thoại sau đó giữa ông Nha, Văn Sửu, ông Độp,… cho ta thấy rõ đặc điểm của những nhân vật này.

 

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Theo em, văn bản “Đổi tên cho xã” đã nêu lên và phê phán hiện tượng gì? Điều đó còn có ý nghĩa với cuộc sống hôm nay không?

Trả lời:

- Văn bản đã nêu lên và phê phán hiện tượng sĩ diện, ảo tưởng, mơ mộng, hứng thú với những điều to tát trong khi kiến thức, năng lực để làm điều đó lại không có.

- Điều này còn ý nghĩa với cuộc sống hôm nay vì nhiều người trong xã hội vẫn đang mơ mộng, ảo tưởng về một tương lai rực rõ, chói loà trong khi kiến thức và năng lực thì yếu kém, không chịu nâng cao. Còn đối với bệnh sĩ thì bệnh này hiển hiện rất rõ ràng trong cuộc sống ngày nay, từ cả thành phố về miền quê. Ví dụ nhiều người cố phải xây được ngôi nhà của mình to hơn của người khác, muốn con của mình nhất định phải giỏi hơn con người khác,…

 

Câu 2: Bằng trải nghiệm của bản thân, em hãy nêu một số ý nói về tác hại của “bệnh sĩ” trong cuộc sống.

Trả lời:

Tham khảo: 

- Thói sĩ diện hão thường đồng hành với sự giả tạo, khoe mẽ, hợm hĩnh, bảo thủ, giấu dốt, phù phiếm, lãng phí, là một đặc trưng phổ biến của xã hội tiểu nông. Những triệu chứng biểu hiện của thói sĩ diện hão trong xã hội là muôn hình, muôn vẻ. Thí dụ có biết bao gia đình nông dân nghèo túng thực sự, nhưng vẫn sẵn sàng vay mượn để mua sắm chi dùng cho những việc cưới xin, ma chay, giỗ tết sao cho bằng thiên hạ rồi sau đó phải kéo cày trả nợ, vất vả suốt đời. Vì thói sĩ diện hão mà có những thanh niên thường làm ra vẻ ta đây và thường có những hành vi “ngựa non háu đá” đua đòi, manh động để rồi chuốc lấy những kết cục đáng buồn.

- Cũng vì thói sĩ diện hão mà người ta khi ăn uống với bạn bè hay ở nơi công cộng thường để thừa thức ăn, nước uống ở bát đĩa, cốc chén để tỏ ra ta đây no đủ, lịch sự, mặc dù bản thân có khi vẫn còn đói, còn khát. Trong trường hợp này người ta thường biện bạch rằng kẻ ăn sạch đĩa, uống cạn cốc là kẻ hạ lưu nghèo hèn, không phải hạng sang trọng quý phái. Nhưng họ đã không biết rằng người Đức, người Anh, người Nhật và nhiều người dân các nước văn minh khác họ đâu có phải là những hạng hạ lưu nghèo hèn mà khi ăn uống là họ ăn bằng hết, uống bằng sạch. Thói sĩ diện hão cũng đã làm cho không ít người phải gồng mình, cúi mình trả giá để tìm kiếm cái danh, cái chức rồi để biến mình thành loại người “hữu danh vô thực”. Người làm lãnh đạo có thói sĩ diện hão thường hay ra oai, ra uy, khệnh khạng, quan cách, gia trưởng, hách dịch, bảo thủ giấu dốt, sợ nói ra điều mình chưa biết, chưa hiểu thì mất thể diện, uy tín giảm sút.

- Người có thói sĩ diện hão nếu có một chút chức quyền nhỏ nhoi hoặc được tham dự vào những công việc lớn lao thì thường tìm cách phô trương khoe mẽ cho bạn bè, bà con họ hàng thân thích biết vị trí, vai trò của mình là quan trọng. Hạng người này thường tỏ ra ta đây biết đủ chuyện trong nước, thế giới và cũng hay bóng gió khoe mình là bà con, người nhà, thân hữu với ông to, bà lớn nào đó theo kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ”.

- Tâm lý “con gà ganh nhau tiếng gáy” và “trưởng giả học làm sang”, thích cho thiên hạ khen nịnh là tâm lý đặc trưng chung của những người có thói sĩ diện hão. Từ tâm lý đó, người có thói sĩ diện hão thường tìm mọi cách thức, kể cả các thủ đoạn hạ lưu, hèn kém để đạt được mục tiêu của mình. Đây cũng là một thực tế giải thích vì sao trong xã hội ta hiện nay có không ít người giàu về tiền của, tài sản dư thừa mà nhân cách vẫn không thể sang trọng, cao quý.



=> Giáo án Ngữ văn 8 cánh diều Bài 4 Đọc 1: Đổi tên cho xã

Thông tin tải tài liệu:

Phía trên chỉ là 1 phần, tài liệu khi tải về là file word, có nhiều hơn + đầy đủ đáp án. Xem và tải: Câu hỏi tự luận ngữ văn 8 cánh diều - Tại đây

Tài liệu khác

Tài liệu của bạn

Tài liệu mới cập nhật

Tài liệu môn khác

Chat hỗ trợ
Chat ngay